Phỏng vấn
Umberto Eco, The Art of Fiction No. 197
Số 185 - Summer 2008
Người phỏng vấn: Lila Azam Zanganeh
Lần đầu tiên tôi gọi điện cho Umberto
Eco, ông đang ngồi bên chiếc bàn của mình, trong dinh thự
được xây từ thế kỷ mười bảy, trên ngọn đồi bên
rìa Urbino, gần vịnh Adriatic nước Ý. Ông cất lời ca
ngợi vẻ đẹp của cái bể bơi, nhưng lại lo rằng tôi
sẽ phải xoay xở với con đường núi đèo dốc quanh co.
Vậy nên chúng tôi quyết định cuộc gặp sẽ diễn ra ở
căn hộ của ông tại Milan. Tôi đến đây vào tháng Tám
đúng dịp ferragosto, đợt nắng nóng nhất mùa hè
và là ngày Nhà thờ Công giáo mừng Lễ Đức Mẹ lên
Trời. (Assumption of the Virgin Mary). Các tòa nhà gạch xám
của Milan lấp lánh trong cái nóng, với một lớp bụi mờ
phủ trên những vỉa hè. Đâu đó vang lên tiếng động
cơ xe. Đặt chân vào tòa nhà nơi Eco ở, tôi chui vào
chiếc thang máy có từ đầu thế kỷ và nghe liền thấy
tiếng kẹt cửa ở tầng trên. Vóc dáng bệ vệ của Eco
xuất hiện sau tấm cửa lưới bảo hộ thang máy.
“Ahhh”, ông kêu lên, hơi nhăn nhó.
Căn hộ là một mê cung hành lang với các
giá sách chạm đến tận cái trần nhà đặc biệt cao –
ba mươi nghìn cuốn, Eco nói, cộng với hai mươi nghìn
cuốn nữa trong dinh thự. Tôi bắt gặp các sách luận
khoa học của Ptolemy cùng với tiểu thuyết của Calvino,
nghiên cứu phê bình của Saussure và Joyce bên cạnh những
giá dành riêng cho lịch sử Trung Cổ và những bản chép
tay về các thuật bí truyền. Thư viện này trông thật
sống động, nhiều cuốn sách có vẻ được tra cứu rất
thường xuyên; Eco đọc nhanh và có trí nhớ phi thường.
Nhiều giá chứa tất cả công trình toàn tập của chính
Eco, được dịch ra các thứ tiếng (Ả Rập, Phần Lan,
Nhật Bản… tôi bỏ cuộc sau khi đếm được hơn ba mươi
ngôn ngữ). Eco chỉ vào những cuốn sách của mình với
một tính chính xác cao độ, thu hút sự chú ý của tôi
từ tập này sang tập khác, từ nghiên cứu lý thuyết phê
bình đầu tiên gây được tiếng vang, The Open Work,
cho đến tác phẩm gần đây nhất, On Ugliness.
Eco bắt đầu sự nghiệp của mình là một
học giả ngành nghiên cứu Trung Cổ và Ký hiệu học. Và
rồi vào năm 1980, ở tuổi bốn mươi tám, ông xuất bản
một cuốn tiểu thuyết: The Name of the Rose (Tên của
Đóa Hồng). Vị giáo sư hóa thành một ngôi sao trên diễn
đàn văn học. Các nhà báo theo đuôi, mỗi lời nhận định
văn hóa đều được thèm khát, hiểu biết uyên bác được
phát lộ, Eco trở thành nhà văn người Ý quan trọng nhất
còn sống. Từ thời điểm đó trở đi, ông tiếp tục
viết các tiểu luận huyễn tưởng, các công trình nghiên
cứu, thêm bốn tiểu thuyết bán chạy hàng đầu, trong đó
có Foucault Pendulum (1988) và The Mysterious of Queen Loana
(2004).
Bước theo bước chân nặng nề của Eco dọc
hành lang, chúng tôi bước vào phòng khách. Qua khung cửa
sổ, bóng hình sắc nét của một lâu đài thời Trung Cổ
in lên bầu trời thành Milan. Tôi đã hằng mong sẽ được
thấy những tấm thảm cùng với đồ cổ Ý, nhưng lại
bắt gặp đồ nội thất hiện đại, với tủ kính bày
vỏ sò và một vài cuốn truyện tranh, một cây đàn lute,
một bộ sưu tập ống sáo và một bộ cọ vẽ. “Cái
này này, là do Arman tặng riêng cho tôi đấy…”
Tôi ngồi trên chiếc trường kỷ dài màu
trắng, trong khi Eco yên vị trong chiếc ghế bành thấp,
điếu xì gà trên tay. Trước đây ông thường hút đến
sáu điếu thuốc lá một ngày, ông nói với tôi, nhưng
giờ chỉ còn một điếu xì gà không châm lửa. Sau câu
hỏi đầu tiên của tôi, đôi mắt khép hờ của Eco mở
bừng ra khi đến phiên ông trả lời. “Tôi nuôi dưỡng
niềm đam mê với thời Trung Cổ,” ông nói, “giống như
một số người cảm thấy hứng thú với cây dừa ấy.”
Ở Ý, ông rất nổi tiếng với battute của mình,
một kiểu thở hắt ra rất kịch mà ông nhấn nhá vào
giữa những vế câu trúc trắc của mình. Ông càng nói,
giọng ông như lại càng lớn thêm. Rồi ông bắt đầu
đưa ra các gạch đầu dòng, như thế đang say sưa trong
một lớp học: “Số 1: khi tôi viết The Name of the Rose
đương nhiên tôi không hề biết, cũng không ai biết,
Aristote đã viết điều gì trong tập sách thất lạc của
bộ Poetics, cái tập sách kinh điển về kịch nghệ
ấy. Nhưng bằng cách nào đó, trong quá trình viết cuốn
tiểu thuyết, tôi đã phát hiện ra. Số 2: tiểu thuyết
trinh thám đặt ra câu hỏi chủ chốt của triết học –
ai đã làm điều đó?” Khi ông nhận ra người tiếp
chuyện có vẻ đủ thông minh, ông nhanh chóng ban tặng
thêm những nhận xét hàn lâm: “Phải, đúng thế. Nhưng
tôi cũng muốn bổ sung là…”
Sau hai tiếng đầu của buổi phỏng vấn,
Mario Andreose, chủ nhiệm mảng văn học của Bompiani, nhà
xuất bản tiếng Ý của Eco, đến nơi đưa chúng tôi đi
ăn tối. Renate Ramge, bà vợ bốn mươi nhăm tuổi của
ông, ngồi ở ghế cạnh Andreose, còn Eco và tôi ngồi ghế
sau. Eco, người chỉ vài phút trước còn sục sôi tinh
thần và nhiệt huyết, giờ có vẻ ủ rũ và xa cách.
Nhưng tâm trạng của ông sớm khá lên sau khi chúng tôi
bước vào nhà hàng và một đĩa bánh mì đã được đặt
ngay trước mặt. Ông liếc menu, lưỡng lự, rồi khi người
bồi bàn vừa đến, vội vã gọi một đĩa calzone và một
ly Scotch. “Ừ đúng, tôi không nên làm thế, không nên…”
Một độc giả tươi cười tiến lại gần, “Ông có
phải là Umberto Eco không ạ?” Ngài giáo sư nhíu một
lông mày, cười toét và bắt tay. Sau đó, ngay khi cuộc
nói chuyện được nối lại, Eco đã say sưa thao
giảng về Giáo hoàng Benedict XVI, sự sụp đổ của Đế
chế Ba Tư và bộ phim về JamesBond vừa mới ra mắt. “Cô
có biết là,” ông nói khi đang xắn miếng calzone, “tôi
đã xuất bản một nghiên cứu cấu trúc luận về nguyên
mẫu trong kịch bản của Ian Fleming không?”
Người
phỏng vấn (NPV)
Ông sinh
ra ở đâu?
ECO
Ở thành phố Alessandria. Nơi đó nổi tiếng
nhờ những chiếc mũ Borsalino.
NPV
Ông xuất
thân từ gia đình như thế nào?
ECO
Cha tôi là kế toán còn ông nội là thợ
sắp chữ. Cha tôi là con út trong mười ba
đứa con. Tôi là con trai cả của ông. Con trai tôi là con
cả của tôi. Đứa con đầu của nó là con trai. Vậy nên
nếu ai đó tình cờ phát hiện ra rằng dòng họ Eco là
con cháu của hoàng đế Byzantin, thì cháu trai tôi hẳn là
người kế vị !
Ông nội có một ảnh hưởng
quan trong lên cuộc đời tôi, dù tôi không thường xuyên
đến thăm ông, vì ông sống cách thành phố ba dặm và
ông mất khi tôi lên sáu. Ông luôn tò mò về cuộc sống
và đọc rất nhiều sách. Điều tuyệt vời là khi đã
nghỉ hưu, ông bắt đầu đóng sách ở nhà. Vậy nên lúc
nào ông cũng có các quyển sách chờ đóng nằm rải rác
khắp nơi – những cuốn tiểu thuyết có hình minh họa,
cũ kỹ và đẹp đẽ của Gautier hoặc Dumas. Đó là những
cuốn sách đầu tiên tôi nhìn thấy. Khi ông mất vào năm
1938, nhiều người chủ của những quyển sách chưa đóng
đó không liên lạc để lấy lại chúng, nên gia đình tôi
quyết định chuyển hết chúng vào một chiếc hộp lớn.
Sau đó tình cơ, cái hộp lại được đặt ở tầng gác
ngôi nhà của bố mẹ tôi. Thỉnh thoảng tôi được sai
lên đó để lấy ít than củi hoặc một chai rượu, rồi
một ngày tôi mở chiếc hộp ấy ra và tìm thấy một kho
tàng sách truyện. Từ tôi chăm lên tầng gác hơn và khám
phá ra ông nội tôi cũng sưu tầm một tờ tạp chí nổi
tiếng, Giornale illustrato dei viaggi e delle avventure di terra
e di mare – bích báo về du lịch và phiêu lưu trên đất
liền và trên biển – dành cho các câu chuyện kỳ lạ và
đáng sợ diễn ra ở những vùng đất xa xôi. Đó là
chuyến xâm nhập đầu tiên của tôi vào xứ sở của
những câu chuyện. Thật không may là tôi đã đánh mất
tất cả số sách và tạp chí đó, nhưng sau vài thập kỷ,
tôi đã dần thu thập lại được chúng từ các hàng sách
và chợ đồ cũ.
NPV
Nếu như
ông chưa từng nhìn thấy cuốn sách nào trước khi đến
thăm ông nội mình, tức là bố mẹ ông không hề có
sách ?
ECO
Kể
cũng lạ, hồi còn trẻ, cha tôi rất ham đọc. Nhưng
vì ông bà tôi có đến mười ba đứa con, nên gia đình
kiếm sống chật vật và cha tôi không có tiền để mua
sách. Vậy nên ông ấy đến các cửa hàng sách và đứng
đọc ngay trên trên vỉa hè. Khi nào chủ cửa hàng thấy
phát cáu vì thấy ông ấy cứ loanh quẩn xung quanh, cha tôi
bèn đến cửa hàng tiếp theo và đọc phần còn lại của
cuốn sách ở đó, cứ như vậy. Đó là hình anh mà tôi
rất trân trọng. Đứa trẻ nhằng nhẵng theo đuổi những
cuốn sách. Khi đã trưởng thành, cha tôi chỉ được rảnh
rỗi vào buổi tối và lúc đó ông thường đọc báo và
tạp chí. Trong nhà chúng tôi chỉ có một ít tiểu thuyết,
nhưng chúng không nằm trên giá sách mà nằm trong tủ quần
áo. Thỉnh thoảng tôi thấy cha đọc tiểu thuyết mượn
được từ bạn bè ông.
NPV
Ông
ấy
nghĩ gì khi ông trở thành một học giả khi còn trẻ tuổi
như vậy?
ECO
Ồ,
ông ấy qua đời khá sớm, năm 1962, nhưng trước đó tôi
cũng đã kịp xuất bản một vài cuốn sách. Một số
nghiên cứu thôi, và hẳn là chúng đã khiến cha tôi bối
rối đôi chút, nhưng rồi tôi phát hiện ra là vào những
lúc tối muộn, ông ấy đã cố gắng đọc chúng. The Open
Work được xuất bản chính xác ba tháng trước khi ông
mất và được nhà thơ vĩ đại Eugenio Montale viết bài
điểm sách trên tờ Corriere della Sera. Đó là một bài
điểm sách rất lạ lùng – đầy hiếu kì, thân thiện
và cũng thô tục nữa – nhưng được viết bởi Montale,
và vì thế, tôi cho rằng, với cha tôi thật khó mà có
thể hình dung ra điều gì tuyệt vời hơn thế nữa. Theo
một cách nào đó, tôi đã trả được món nợ của mình,
và cuối cùng thì, tôi cảm thấy mình đã thỏa mãn được
những trông đợi của ông, dù rằng tôi nghĩ ông có lẽ
thấy vui thích hơn nếu được đọc các tiểu thuyết của
tôi. Mẹ tôi sống thêm mười năm sau đó, nên bà ấy
biết là tôi đã viết thêm nhiều cuốn khác, và tôi được
mời đến đọc sách ở các trường đại học ngoại
quốc. Bà ấy ốm rất nặng, nhưng hạnh phúc, dù tôi
không nghĩ là bà đủ minh mẫn để hiểu điều gì đang
xảy ra. Và cô biết đấy, một người mẹ luôn tự hào
về con trai mình, dù cho đứa con đó hoàn toàn ngu ngốc.
NPV
Ông
là một
đứa trẻ khi chủ nghĩa Phát xít lên ngôi ở Ý và chiến
tranh bùng nổ. Ông đã ý thức về điều đó như thế
nào?
ECO
Đó
là một quãng thời gian kỳ lạ. Musslini là một nhân vật
đầy lôi cuốn, và như mọi đứa học trò người Ý vào
thời điểm đó, tôi gia nhập phong trào Phát xít của
thanh thiếu niên. Tất cả chúng tôi bị bắt mặc đồng
phục theo kiểu quân đội và tham dự các buổi biểu
dương lực lượng vào mỗi chủ nhật - chúng tôi cảm
thấy hạnh phúc vì điều đó. Cũng tương tự như việc
ngày nay người ta cho một chú bé người Mỹ ăn mặc kiểu
lính thủy – và chú ta hẳn sẽ thấy vui thích. Đối với
những đứa trẻ chúng tôi, phong trào đó là cái gì đó
hoàn toàn tự nhiên, như tuyết vào mùa đông hay cái nóng
mùa hè. Chúng tôi không thể hình dung ra một cách sống
nào khác. Tôi nhớ về thời kỳ đó với một tình cảm
dịu dàng y như bất cứ ai nhớ về tuổi thơ của họ.
Tôi thậm chí còn nhớ các cuộc đánh bom, những đêm
trong hầm trú ẩn, một cách trìu mến như thế. Khi tất
cả chấm dứt vào năm 1943, cùng với sự sụp đổ lần
đầu của chủ nghĩa Phát xít, tôi mới phát hiện ra sự
tồn tại của những đảng phái chính trị khác, những
các nhìn nhận khác qua báo chí dân chủ. Để tránh những
đợt đánh bom từ tháng Chín năm 1943 đến tháng Tư năm
1945 – giai đoạn đau thương nhất trong lịch sử của
đất nước – mẹ tôi đã đưa chị gái và tôi đến
sống ở vùng ngoại ô, lên phía Monferraton, ở một ngôi
làng nói tiếng Piedmonte và cũng là nơi tập trung của lực
lượng kháng chiến thời ấy.
NPV
Ông
đã chứng
kiến trận đánh nào chưa?
ECO
Tôi
nhớ
đã từng nhìn thấy những cuộc đấu súng giữa
phe Phát xít và quân Du kích, gần như tôi đã muốn tham
gia vào trận đánh. Đến mức mà tôi xông lên, tránh được
một viên đạn nhắm vào mình rồi tìm cách nhảy vào
chiến trường. Và rồi, từ ngôi làng mà chúng tôi sống,
tôi còn nhớ mình có thể nhìn thấy hầu như hàng tuần
chúng đánh bom Alessandria, nơi cha tôi đang làm việc. Bầu
trời vỡ ra như một trái cam. Vì đường dây điện thoại
không hoạt động, nên chúng tôi phải đợi đến cuối
tuần, khi cha trở về nhà để biết ông còn sống hay đã
chết.Trong suốt thời gian đó, sống ở vùng nông thôn,
một chàng trai trẻ phải tự học cách để sống sót.
NPV
Chiến
tranh có ảnh hưởng gì đến quyết định cầm bút của
ông không?
ECO
Không,
không có mối
liên hệ trực tiếp nào cả. Tôi đã bắt đầu viết
trước khi chiến tranh xảy ra, hoàn toàn độc lập khỏi
nó. Thời niên thiếu tôi đã viết các cuốn truyện
tranh, vì tôi đọc rất nhiều thể loại đó, cùng với
các tiểu thuyết huyễn tưởng, về chuyện xảy ra ở
Malaysia và Trung Á. Tôi là người theo chủ nghĩa hoàn hảo
và tôi muốn chúng phải được tạo ra như cách chúng sẽ
được in, nên tôi cầu kỳ viết các chữ in hoa và vẽ
tít, tạo mục lục, vẽ các tranh minh họa. Công việc ấy
tỉ mẩn quá nên rốt cuộc tôi chưa bao giờ hoàn thiện
được cuốn nào. Khi đó, tôi là một nhà văn vĩ đại
của những tuyệt tác dở dang. Dù hiển nhiên là, khi tôi
bắt đầu viết tiểu thuyết, những hồi ức về chiến
tranh đã giữ một vai trò nhất định. Nhưng ai cũng vậy
cả thôi, một người luôn bị ám ảnh bởi những ký ức
từ một thời tuổi trẻ.
NPV
Ông
đã từng
cho
ai xem những
quyển sách của thời kỳ đó chưa?
ECO
Có
thể
là cha mẹ tôi đã thấy những gì tôi làm khi đó, nhưng
tôi không nghĩ là tôi đã đưa cho bất cứ ai đọc chúng.
Đó là thú vui tội lỗi của mình tôi thôi.
NPV
Ông
đã từng
thử viết thơ vào thời kỳ đó. Trong một tiểu luận,
ông có viết: “thơ ca do tôi sáng tác được sinh ra và
có hình thức y như mụn trứng cá của tuổi dậy thì”
[my
poetry had the same functional origin and the same formal
configuration as teenage acne]
ECO
Tôi
nghĩ rằng
vào một độ tuổi nhất định nào đó, khoảng 15 hay 16,
thơ ca cũng giống như thủ dâm vậy. Nhưng
khi giai đoạn đó qua đi, nhà thơ giỏi sẽ đốt hết
những bài thơ thời trẻ, còn nhà thơ tồi thì sẽ đem
chúng đi xuất bản. Tôi may mắn là đã bỏ cuộc từ
sớm.
NPV
Ai
là người
đã động viên ông
trên con đường văn học?
ECO
Bà
ngoại
tôi, bà ấy là một độc giả đầy mê say. Bà chỉ học
đến lớp năm trường tiểu học, nhưng là thành viên của
thư viện thành phố, và mỗi tuần bà luôn mang về nhà
cho tôi hai hay ba quyển sách: tiểu thuyết ba xu [dime
novels] hoặc Balzac. Đối với bà ấy, không có sự khác biệt
nào, chúng đều hấp dẫn như nhau. Mặt khác, mẹ tôi đã
học để trở thành một thư ký đánh máy. Bà bắt đầu
học tiếng Pháp và tiếng Đức, và dù rằng khi còn trẻ
mẹ đọc rất nhiều, bà dần xao nhãng khi bắt đầu có
tuổi, chỉ còn đọc tiểu thuyết diễm tình và tạp chí
dành cho phụ nữ. Vậy nên tôi không đọc những gì bà
ấy đọc. Nhưng bà luôn nói chuyện đầy duyên dáng, với
một phong cách Ý vững vàng và viết thư hay đến nỗi
bạn bè của bà từng nhờ bà viết thư hộ cho họ. Bà
có một sự nhạy cảm đáng kể với ngôn ngữ, dù đã
rời trường học từ khi còn ít tuổi. Tôi nghĩ là tôi
đã được thừa hưởng đặc tính tuyệt vời ấy từ
bà, đó cũng chính là yếu tố đầu tiên tạo nên phong
cách của tôi.
NPV
Dựa
vào đâu để nói về yếu
tố tự truyện trong
tiểu thuyết của ông?
ECO
Đối
với tôi thì, theo một cách nào đó, mọi tiểu thuyết
đều có yếu tố tự truyện. Khi ta tưởng tượng ra một
nhân vật, ta gửi vào anh ta hay cô ta một phần ký ức
của bản thân mình. Ta đưa một phần của chính ta cho
nhân vật thứ nhất, một phần khác cho nhân vật thứ
hai. Cũng có thể hiểu là tôi không viết bất cứ cuốn
tự truyện nào, tự truyện của tôi là tất cả những
cuốn tiểu thuyết tôi đã viết, gộp lại với nhau. Đó
mới là điều cốt yếu.
NPV
Hẳn
là có những hình ảnh cụ thể mà ông đã đưa vào tác
phẩm của mình? Tôi đang nghĩ đến cảnh Belbo chơi kèm
trumpet ở nghĩa trang, trong cuốn Con lắc của Foucault
[Foucault’s
Pendulum].
ECO
Khung
cảnh
ấy hoàn toàn là trải nghiệm của cá nhân tôi. Tôi không
phải Belbo, nhưng điều đó đã xảy ra với tôi và nó
quan trọng đến nỗi ngay bây giờ đây tôi sẽ tiết lộ
một điều mà tôi chưa bao giờ nói ra trước đây. Ba
tháng trước, tôi đã mua một cái trumpet xịn có giá đến
hai nghìn dollars. Để chơi được trumpet, cô biết đấy,
người ta phải rèn luyện khẩu độ (của đôi môi) một
thời gian dài. Hồi mười hai, mười ba tuổi, tôi chơi
khá cừ, nhưng giờ rồi tôi đánh mất còn kỹ năng đó
và giờ thì chơi rất tồi. Nhưng dẫu vậy, tôi vẫn chơi
trumpet hàng ngày, vì tôi muốn trở lại tuổi thơ. Nhờ
vào cây trumpet mà tôi biết được mình là ai khi còn trẻ.
Tôi không có cảm giác gì với đàn violon, nhưng mỗi khi
tôi nhìn vào cây trumpet, tôi luôn cảm thấy một dòng
nhiệt huyết tuôn chảy bên trong mình.
NPV
Ông
có tìm lại
được cảm giác khi chơi những giai điệu ngày đó không?
ECO
Càng
chơi,
những hồi tưởng về giai điệu lại càng trở nên sống
động.
Đương nhiên có những đoạn nhạc quá cao, quá khó. Tôi
cố gắng tập đi tập lại vài lần, nhưng tôi biết rằng
khẩu độ của mình không đúng.
NPV
Điều
tương tự có xảy ra với ký ức của ông không?
ECO
Điều
lạ lùng
ở đây là: càng già tôi càng nhớ ra được nhiều
chuyện. Tôi lấy một ví dụ nhé: thổ ngữ ở nơi tôi
lớn lên là Allessandrion, một tập hợp hỗn tạp từ
nhiều ngôn ngữ lân cận [lược
dịch: a
bastard Piedmontese with elements of Lombard, Emilian, and Genovese].
Tôi không nói thứ
tiếng này, vì tôi lớn lên trong một gia đình tiểu
tư sản, và cha tôi cho rằng chị em chúng tôi chỉ nên
nói tiếng Ý mà thôi. Tuy vậy, bố mẹ tôi vẫn hay nói
tiếng địa phương với nhau. Thành ra tôi nghe hiểu rất
tốt nhưng lại không thể nói được. Nửa thế kỷ sau,
một cách đầy bất ngờ, từ một ngóc ngách nào đó của
cơ thể tôi, hay từ trong vô thức, ngôn ngữ ấy dần
hình thành, rồi khi gặp lại một người bạn cũ từ
Alessandria, tôi lại có thể nói được lưu loát! Vậy nên
dần dà tôi nhận ra rằng thời gian trôi đi, tôi không
chỉ tìm lại được những gì tôi đã quên, mà còn có
thêm được những điều mà tôi tin là mình chưa bao giờ
học trước đây.
NPV
Lý
do gì khiến
ông quyết định nghiên cứu Mỹ học thời Trung cổ
[medieval
aesthetics]?
ECO
Tôi
được
giáo dục theo lối
Công
giáo và trong
suốt những năm đại học, tôi đã điều hành một trong
những hiệp hội của sinh viên Công giáo toàn quốc. Vậy
nên tôi bị thu hút bởi tư duy của các nhà hiền triết
thời Trung Cổ, cũng như Thần học về Thiên Chúa
[Christian
theology].
Tôi
bắt
tay làm luận án về mỹ học theo quan điểm của thánh
Thomas Aquinas, nhưng ngay trước khi hoàn thành, đức tin của
tôi đã bị tổn hại. Đó là một bê bố chính trí phức
tạp. Tôi ủng hộ đường lối tiến bộ của hiệp hội
sinh viên, nghĩa là tôi quan tâm đến các vấn đề xã
hội, quyền bình đẳng. Nhưng phe cánh hữu bảo thủ được
Giáo Hoàng Pius XII bảo hộ. Một ngày phe của tôi bị kết
tội dị giáo và ăn theo chủ nghĩa cộng sản. Ngay cả tờ
báo chính thức của Vatican cũng công kích chúng tôi. Sự
kiến đó đã khiến tôi phải nhìn nhận lại đức tin
của mình. Nhưng rồi tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu thời
Trung Cổ và triết học Trung Cổ với lòng kính trọng sâu
sắc, đó là chưa kể đến Thánh Aquinas yêu dấu của
tôi.
NPV
Ở
phần tái
bút trong Tên của Đóa Hồng, ông viết “Tôi nhìn thấy
thời kỳ này ở mọi nơi, phủ lên mọi quan tâm của tôi
đối với đời sống thường ngày, ngay cả khi bề ngoài
của sự vật không có vẻ gì là Trung Cổ, thì chúng vẫn
thuộc về thời kỳ ấy.”
ECO
Trong
suốt
cuộc đời mình, tôi đã có vô số trải nghiệm về sự
hiện diện trọn vẹn của thời Trung Cổ ở thời hiện
tại. Ví dụ khi đang làm luận án, tôi có đến Paris hai
lần, mỗi lần kéo dài nhiều tháng để tra cứu tài liệu
trong Bibliothèque
Nationale (Thư
viện Quốc gia Pháp). Tôi đã quyết định sẽ sống trọn
vẹn hai tháng trong thời kỳ Trung Cổ. Nếu như ta rút gọn
tấm bản đồ Paris, chỉ chọn ra vài con phố, đều đó
là hoàn toàn có thể. Và ta sẽ bắt đầu suy nghĩ và cảm
nhận y như một người đàn ông sống vào thời đó. Một
ví dụ khác: vợ tôi – cũng là một người làm vườn
tuyệt hảo và biết tên của mọi thứ hoa cỏ trên đời,
trước khi tôi viết cuốn Tên của Đóa Hồng, đã thường
chê trách tôi không chịu nhìn ngắm thiên nhiên. Có một
lần, chúng tôi về vùng quê, khi đốt lửa trại, bà ấy
nói: Hãy nhìn những đốm tro hồng bay lên ngọn cây kìa.
Đương nhiên là tôi không hề đếm xỉa đến. Sau này,
khi đọc chương cuối trong Tên của Đóa Hồng, đoạn mà
tôi miêu tả đốm lửa y như vậy, bà ấy nói: Nhưng mà
ông đâu có nhìn vào những đốm tro ấy đâu! Tôi bèn
nói: Tôi không nhìn, nhưng mà tôi biết một thầy tu thời
Trung Cổ sẽ cảm thấy thế nào khi nhìn vào đó.
NPV
Ông
có nghĩ là mình thực
sự vui thích cuộc sống thời Trung Cổ không?
ECO
Ồ
nếu mà tôi thực sự cảm thấy như thế, ở tuổi này,
thì chắc là tôi đã chết rồi. Tôi ngờ rằng nếu tôi
thực sự sống trong thời Trung Cổ, cảm giác của tôi về
thời kỳ đó hẳn sẽ phải khác lắm. Thay vào đó, tôi
chỉ tưởng tượng ra thôi.
NPV
Với
một người không có hiểu biết trong lĩnh vực này
(layman
có
thể hiểu theo nghĩa người bình thường hay người không
thuộc giới tăng lữ), thời kỳ Trung Cổ mang một sắc
thái kỳ bí và hoàn toàn xa lạ. Vậy điều gì đã lôi
cuốn ông?
ECO
Cũng
khó nói lắm.
Tại sao chúng ta yêu? Nếu buộc phải giải thích, tôi sẽ
nói nguyên nhân là ở chỗ thời kỳ đó hoàn toàn đối
lập với những gì người ta thường nghĩ về nó. Đối
với tôi, đó không phải “đêm trường Trung Cổ” [the
Dark Ages].
Đó là một giai đoạn rực rỡ, là mảnh đất màu mỡ
đã nuôi dưỡng thời kỳ Phục Hưng sau này. Một thời
kỳ đầy những giao đoạn hỗn độn và thất thường đã
đánh dấu sự ra đời của đô thị hiện đại, của hệ
thống ngân hàng, của trường Đại học, của ý niệm
của chúng ta về một Châu Âu, mà gán liền với đó là
các đặc trưng ngôn ngữ, quốc gia và văn hóa.
NPV
Ông
vừa
nói rằng trong các tác phẩm của mình, ông không bao giờ
thiết lập những liên
hệ nhận thức song
song giữa
thời Trung Cổ và thời Hiện đại [you
never make conscious parallels between the Middle Ages and modern
times], nhưng
dường
như chính điều đó lại góp phần tạo nên sức hấp dẫn
của thời kỳ đó đối với ông.
ECO
Đúng
vậy,
nhưng ta cần phải rất cẩn thận với những mối liên
hệ tương đồng. Trước đây tôi từng viết một tiểu
luận về những điều tồn tại ở thời Trung Cổ vẫn
đang hiện hữu trong thời đại chúng ta. Nhưng nếu như
cô đưa tôi năm mươi dollars, tôi cũng sẽ viết cho cô
một tiểu luận về những gì trùng lặp giữa thời đại
chúng ta với thời kỳ của người Neanderthals[1].
Rất
dễ để tìm ra
những
điểm trùng
lặp. Tuy vậy tôi vẫn nghĩ rằng quan tâm đến lịch sử
chính là tìm ra những liên hệ thực sự sâu sắc với
hiện tại này. Thú thực là tôi quá lỗi thời mất rồi,
nhưng tôi vẫn tin , như Cicero đã tin, rằng historia
magistra vitae,
chúng ta hiểu
được cuộc sống này là nhờ vào lịch sử.
NPV
Tại
sao một học giả trẻ như ông khi đó lại đột ngột
chuyển hướng sang nghiên cứu ngôn ngữ?
ECO
Từ
khi bắt đầu có nhận thức, tôi đã luôn cảm thấy hứng
thú với việc giao tiếp. Từ khía cạnh Mỹ học,
câu hỏi sẽ là: Thế nào là một tác phẩm nghệ thuật,
và một tác phẩm nghệ thuật giao tiếp với chúng ta như
thế nào? Tôi đã thực sự bị lối cuốn bởi câu hỏi
“thế nào”. Thêm nữa, chúng ta được coi là con người
bởi lẽ chúng ta có khả năng tạo ra ngôn ngữ. Thành ra,
ngay sau khi hoàn thành luận án, tôi đã bắt đầu làm
việc cho đài truyền hình của chính phủ Ý. Đó là vào
năm 1954, chỉ một vài tháng sau khi những chương trình
truyền hình đầu tiên được phát sóng, cũng là mốc
đánh dấu sự ra đời của thời đại truyền thông đại
chúng bằng thị giác [the
era of mass visual communication]
ở
Ý. Tôi bèn tự hỏi mình có phải là một dạng đa-nhân
cách quái dị nào đó. Một mặt, tôi hào hứng với những
chức năng tiên tiến nhất của ngôn ngữ trong các thử
nghiệm văn chương và nghệ thuật kiểu mới. Mặt khác,
tôi vui sướng gặm nhấm ti-vi, truyện tranh và các tiểu
thuyết trinh thám. Một cách tự nhiên, tôi tự hỏi bản
thân mình: Làm sao những mối quan tâm của tôi có thể
khác nhau đến như thế?
Tôi
chuyển
sang nghiên cứu ký hiệu học [semiotics]
vì tôi muốn hiểu được văn hóa ở những mức độ
khác nhau. Và
tôi đã đi đủ xa để hiểu rằng bất cứ thứ gì được
tạo ra bởi truyền thông đại chúng đều có thể trở
thành một đối tượng để phân tích dưới góc nhìn văn
hóa[2]
NPV
Ông
từng
nói rằng ký hiệu học là lý thuyết nghiên cứu sự dối
trá.
ECO
Thay
vì “dối
trá”, đáng lẽ tôi nên nói là “kể điều phản-sự
thật” Con người có thể kể truyện cổ tích, tưởng
tượng ra những thế giới mới, hay mắc sai lầm - và
chúng ta cũng có thể nói dối. Ngôn ngữ cho phép tất cả
những khả năng đó.
Nói
dối
là một khả năng đặc biệt chỉ con người mới có
được. Một con chó lần theo một dấu vết, theo dấu một
mùi hương. Cả con chó lẫn mùi hương đều không “nói
dối”, có thể nói như vậy. Nhưng tôi có thể nói dối
cô và chỉ cho cô đi sai đường, vậy mà cô lại tin tôi
và đi theo lối sai ấy. Lý do cho khả năng này là bởi vì
chúng ta nhận thức dựa vào các dấu hiệu.
NPV
Một
vài người phản đối việc coi ký hiệu học là một
lĩnh vực nghiên cứu cho rằng rốt cuộc, những ai nghiên
cứu chuyên ngành này sẽ khẳng định mọi thực tế đều
không có thật.
ECO
Đó
là quan điểm
của những người ủng hộ phương páp giải kiến tạo
[deconstructionists[3]].
Họ
không chỉ cho rằng tất cả mọi thứ đều là văn bản
(text),
ngay cả cái bàn này đây, và mọi văn bản đều có thể
diễn giải đến vô tận – nhưng đây cũng là một ý
tưởng bắt nguồn từ Nietzche, người nói rằng không hề
có sự thật mà tất cả chỉ là những lời diễn giải.
Ngược lại, tôi ủng hộ quan điểm của Charles Sanders
Pierce, người chắc chắn là triết gia Mỹ vĩ đại nhất,
đồng thời là cha để của ký hiệu học và diễn giải
luận [the
theory of interpretation].
Ông ấy
cho rằng, thông qua các ký hiệu mà ta diễn giải được
sự việc. Và nếu như không có sự việc và chỉ có
những diễn giải, thì liệu có còn gì để mà diễn
giải? Đó chính là điều tôi muốn bàn luận trong The
Limits of Interpretation
(tạm dịch: Giới
hạn của Diễn giải).
NPV
Trong
Foucault’s Pendulum, ông viết
“Một biểu tượng càng mơ hồ và khó khó nắm bắt bao
nhiêu thì nó càng có giàu ý nghĩa và sức mạnh bấy
nhiêu”.
ECO
Một
bí mật thực sự lôi cuốn khi nó không ẩn giấu bất cứ
điều gì cả. Như là “Masonic
secret[4]” mà
người ta thường nói đến. Cái gì gọi là “Masonic
secret”? Không ai có thể
nói chắc được. Nhưng điều chắc chắn là, chừng nào
còn trống rỗng, nó càng rộng mở với mọi loại ý
niệm, và vì vậy mà nó có được sức mạnh nhất định.
NPV
Ông
muốn
nói rằng công việc nghiên cứu ký hiệu học của ông là
hoàn toàn tách biệt với công việc của một tiểu thuyết
gia?
ECO
Nghe
có vẻ
khó tin, nhưng tôi chưa từng nghĩ đến kí hiệu học
trong khi viết tiểu thuyết. Phần việc đó tôi để cho
những người khác tiếp nối. Và tôi luôn luôn ngạc
nhiên với những kết quả mà họ đạt được.
NPV
Ông
có bị
ám ảnh bởi truyền hình không?
ECO
Tôi
ngờ
rằng không có học giả nghiêm túc nào lại không thích
xem truyền hình. Tôi chỉ đơn giản là một trong những
người đã thú nhận. Và tôi đã cố sử dụng nó như
một nguyên liệu cho công việc của mình. Nhưng tôi không
phải là một kẻ tham lam cố gắng vơ vét mọi thứ trên
đời. Không phải thể loại truyền hình nào tôi cũng
thích. Tôi thích các series phim tình cảm, tâm lý và ghét
các loại show truyền hình nhảm nhí.
NPV
Có
chương
trình nào mà ông đặc biệt ưa thích không?
ECO
Các
series
phim cảnh sát. Ví dụ như Starsky
and Hutch.
NPV
Serie
đó giờ
không chiếu nữa rồi. Nó có từ những năm bảy mươi.
ECO
Tôi
biết,
nhưng tôi nghe nói là DVD trọn bộ vừa mới được phát
hành, nên tôi nghĩ sẽ đi mua đĩa về xem thôi. Ngoài
ra tôi cũng thích CSI,
Miami Vice, ER, và
hơn
hết là
Columbo.
NPV
Ông
đã đọc
Mật mã Da Vinci chưa?
ECO
Rồi,
tôi cũng thú tội đó luôn.
NPV
Cuốn
tiểu thuyết đó có vẻ như là một ngoại truyện khá kỳ
cục của Foucault’s
Pendulum.
ECO
Tác
giả
của cuốn đó, Dan Brown ấy, là một nhân vật trong
Foucault’s
Pendulum!
Tôi
sáng
tạo
ra anh ta. Anh ta có cùng niềm say mê với các nhân vật của
tôi – thế giới đầy âm mưu với Hội Chữ thập Rosy,
Hội Tam Điểm và các tu sĩ dòng Tên (Jesuits).
Vai trò của các hiệp sĩ dòng Đền (Knights
Templar).
Bí mật
của thuật luyện kim. Hay niềm tin rằng tất cả mọi thứ
đều được kết nối với nhau. Tôi ngờ rằng Dan Brown
thậm chí còn không tồn tại.
NPV
Dường
như ý
tưởng
đưa một tiền đề hư cấu
có
vai trò rất rõ nét trong nhiều tiểu thuyết của ông. Như
vậy, bằng cách này hay cách khác, hư cấu dựng lên sự
thật.
ECO
Đúng
vậy,
chuyện bịa có thể thay đổi thực tế. Đó chính là
điều tôi muốn nói trong tiểu thuyết thứ tư: Baudolino.
Baudolino là một kẻ hay tán phét, sống trong triều đình
của Frederick Barbarossa, Hoàng đế của La Mã Thần Thánh.
Cậu ta bịa ra vô số chuyện trên đời: từ truyền
thuyết về Chén Thánh cho đến chuyện Barbarossa được
thừa nhận là Hoàng đế ở xứ Bologna, từ đó mà gây
ra biết bao nhiêu tai họa chết người. Những câu chuyện
sai lệch có thể dẫn đến những sự kiện lịch sử
thực sự. Ví dụ như lá thư của Prester John: cái đó
hoàn toàn là giả, và trong tiểu thuyết của tôi chính
Baudolino, chứ không phải ai khác, là người đã bịa ra.
Thế nhưng chính nó lại thúc đẩy những cuộc viễn
chinh đến châu Á thời bấy giờ, đơn giản là vì nó vẽ
ra một vương quốc Thiên Chúa giáo đang phồn vinh ở đâu
đó trong lòng phương Đông bí hiểm. Hay là Christopher
Columbus. Ý niệm của ông ấy về thế giới hoàn toàn sai
lầm. Như tất cả mọi người thời Trung Cổ - bao
gồm cả những kẻ đối địch với mình, ông tin rằng
trái đất có hình cầu. Nhưng ông cho rằng nó nhỏ hơn
so với tưởng tượng. Vậy là nhờ tư tưởng sai lầm đó
dẫn lối, ông đã tìm ra ra châu Mỹ. Một ví dụ nổi
tiếng khác là Protocols
of the Elders of Zion[5].
Cái lý thuyết
đó là lừa đảo, nhưng nó đã trở thành điểm tựa cho
hệ tư tưởng của Đức Quốc Xã, và đã mở đường
cho cuộc Diệt Chủng, bởi vì Hitler đã lấy đó làm cái
cứ để tận diệt người Do Thái. Có thể ông ta biết
đó là nó là giả, nhưng nó lại phù hợp với hình ảnh
của người Do Thái mà ông ta muốn dựng nên, vậy là ông
ta quyết tâm coi đó là sự thật.
NPV
Ở
đoạn kết, Baudolino tuyên bố rằng: The
kingdom of the Priest (tạm
dịch: Nước thầy Tế lễ) là có thật vì tôi và các
bạn đồng hành đã dành hai phần ba cuộc đời để tìm
cho được nơi ấy.
ECO
Baudolino
giả
mạo tài liệu, dựng nên các xã hội không tưởng, dàn
dựng những viễn tưởng vô căn cứ. Câu
chuyện bịa đặt hóa thành thật khi những người bạn
của anh ta hồ hởi lao vào chuyến phiêu lưu thực sự đến
phương Đông huyền bí. Nhưng đó mới chỉ là một phương
diện của kỹ thuật kể chuyện. Ở góc nhìn khác, ta có
thể sử dụng những sự có thật, nhưng trong khuôn khổ
của một cuốn tiểu thuyết, lại khó tin đến mức biến
thành chuyện hoàn toàn hư cấu. Trong các tiểu thuyết của
mình, tôi đã đưa vào vô số những câu chuyện và tình
tiết có thật, bởi vì tôi thấy chúng quá lãng mạn, đôi
khi đầy chất tiểu thuyết, hơn hẳn bất cứ thứ chuyện
hư cấu nào tôi từng được đọc. Ví dụ như trong The
Island of the Day Before,
có đoạn
Father Caspar tạo ra một thứ thiết bị kỳ dị để quan
sát các vệ tinh của sao Mộc, nhưng cuối cùng đó lại
là một trò hề không hơn không kém. Thiết bị từng này
được miêu tả trong những lá thư của Galileo. Tôi chỉ
tự hỏi điều gì có thể xảy ra nếu như nó đã từng
tồn tại? Thế nhưng độc giả của tôi lại cho rằng
tất cả chỉ là bịa chuyện gây cười mà thôi.
NPV
Điều
gì đã thôi thúc ông viết tiểu thuyết dựa trên những
sự kiện lịch sử?
ECO
Đối
với tôi, tiểu thuyết lịch sử không hẳn là một phiên
bản hưu cấu của những sự kiện có thật, mà là một
câu chuyện có khả năng giúp chúng ta hiểu hơn về sự
thật lịch sử. Tôi cũng thích đưa vào tiểu thuyết lịch
sử những yếu tố của một bildungsroman.
Trong tất
cả các tiểu thuyết mà tôi đã viết, luôn có một nhân
vật trẻ tuổi trưởng thành dần qua các bài học và
những trải nghiệm không mấy dễ dàng.
NPV
Tại
sao ông lại bắt đầu viết tiểu thuyết ở tuổi bốn
mươi tám?
ECO
Đó
không hẳn
là một quyết định bất thường như mọi người vẫn
nghĩ, vì ngay cả trong luận án tiến sĩ hay các luận
thuyết của mình, tôi vẫn luôn nuôi dưỡng những mạch
kể chuyện. Sau một thời gian dài ngẫm nghĩ, tôi cho rằng
bản chất bên trong của hầu hết những cuốn sách triết
học vẫn là kể câu chuyện về cách mỗi lập luận được
hình thành như thế nào, cũng giống như cách các nhà khoa
học giải thích cho chúng ta con đường nào đã dẫn họ
đến với những phát kiến quan trọng. Tôi nhận thấy
rằng mình vẫn luôn kể chuyện, chỉ là giờ đây có một
sự thay đổi nhỏ về phong cách mà thôi.
NPV
Nhưng
điều gì đã làm cho ông cảm thấy là mình phải viết
một cuốn tiểu thuyết?
ECO
Một
ngày nọ vào năm 1978, một người bạn nói với tôi rằng
cô ấy muốn xuất bản một chuỗi các tiểu thuyết trinh
thám ngắn được viết bởi những tác giả nghiệp dư.
Tôi bèn trả lời rằng không đời nào tôi lại viết
được truyện tinh thám, nhưng nếu như tôi có thể, đó
sẽ phải là một cuốn sách dày năm trăm trang với các
nhân vật là thầy tu thời Trung Cổ. Ngày hôm đó, khi trở
về nhà, tôi bắt đầu lên một danh sách những nhân vật
hư cấu trong giới tăng lữ thời kỳ đó. Rồi bỗng
nhiên hình ảnh của một thầy tu bị đầu độc hiện
lên trong tâm trí tôi. Đó là khởi đầu của tất cả
mọi thứ, chỉ một hình ảnh đó thôi. Nó đã trở thành
một sự thôi thúc mãnh liệt.
NPV
Rất
nhiều tiểu thuyết của ông đựa xây dựng dựa trên
những ý niệm hàn lâm. Dường như đối với ông, tạo
nên cầu nối giữa nghiên cứu lý thuyết và viết tiểu
thuyết là một nhu cầu tự nhiên? Ông đã từng nói rằng:
“những gì không thể thu về lý thuyết được, thì ta
phải giải thích bằng truyện kể.”
ECO
Đó
là lời
diễu nhại ám chỉ một câu nói của Wittgenstein. Sự thật
là, tôi đã viết vô số tiểu luận về ký hiệu học,
nhưng tôi cho rằng những quan điểm của mình lại được
thể hiện rõ ràng trong Foucault’s
Pendulum hơn
là trong những tiểu luận đó. Ý tưởng nảy ra trong đầu
bạn có thể không hề độc đáo – Aristotle luôn nghĩ ra
điều đó trước bạn mất rồi. Nhưng bằng ấy trải ý
tưởng ấy vào trong một tiểu thuyết, bạn có thể khiến
nó trở nên độc đáo. Đàn ông yêu đàn bà. Đó không
phải là điều gì mới mẻ. Nhưng nếu bằng cách nào đó,
bạn có thể viết một tiểu thuyết kinh dị về chủ đề
đó, và rồi nhờ một sức mạnh đánh lạc hướng kỳ
diệu của văn học, câu chuyện trở nên cực kỳ độc
đáo. Tôi chỉ đơn thuần tin rằng, vào lúc cuối ngày,
một câu chuyện sẽ luôn phong phú hơn: đó là sẽ là một
ý tưởng đã được chuyển hóa thành một sự kiện,
thốt ra từ miệng một nhân vật, trong lớp vỏ óng ánh
của ngôn ngữ đã được chế tác tinh xảo. Bởi vậy,
theo một lẽ tự nhiên, khi một ý tưởng biến thành một
thực thể sống, nó trở nên cái gì đó hoàn toàn khác,
và dường như giàu ý nghĩa hơn gấp bội.
Mặt
khác, mâu thuẫn luôn có thể là trọng tâm của một tiểu
thuyết. Giết các bà cô già có thể rất thú vị, dù ý
tưởng đó sẽ khiến bạn bị đánh trượt trong một bài
kiểm tra đạo đức. Nhưng trong một tác phẩm như Tội
lỗi và Trừng phạt, một tuyệt tác văn xuôi trong đó
nhân vật chính không thể khẳng định giết mấy bà cô
già là tốt hay xấu, và chính khúc mắc đó của anh ta –
cái mâu thuẫn mà chúng ta đã nói đến – lại trở
thành một vấn đề đầy thách thức và nên thơ.
NPV
Ông
bắt
đầu tìm kiếm tài liệu cho tiểu thuyết như thế nào?
ECO
Với
Tên của Đóa Hồng, bởi vì tôi vốn ham thích thời Trung
Cổ, tôi có trong tay cả trăm tập tài liệu và chỉ mất
hai năm để hoàn thành cuôn sách. Còn thời gian để tìm
tòi và viết Foucault’s
Pendulum là
tám năm! Và vì tôi không nói cho ai biết
mình đang làm gì, nên giờ nghĩ lại tôi mới nhận ra
rằng mình đã khép mình trong thế giới riêng trong gần
một thập kỉ. Tôi bước ra ngoài phố, nhìn thấy một
chiếc ô tô ở đây, cái cây ở kia và nghĩ, Ồ, chúng có
thể liên quan đến câu chuyện mình đang viết đấy. Vậy
là câu chuyện của tôi được bồi đắp từng ngày, và
tất cả mọi thứ tôi làm, mỗi mảnh nhỏ của cuộc đời
xung quanh, mỗi cuộc hội thoại, đều đem đến cho tôi
một ý tưởng gì đó. Rồi tôi đến thăm những địa
danh có thật mà tôi quan tâm – những nơi ở Pháp và Bồ
Đào Nha từng có những tín đồ dòng Đền sinh sống.
Việc đó cũng giống như trong một video game, trong đó tôi
sắm vai một chiến binh dấn thân vào vương quốc ma
thuật. Nhưng thay vì bị kẹt cứng vào chuyến phiêu lưu
như trong một video game, thì với việc viết lách, có
những lúc bạn bị khủng hoảng đến mức phải bứt
mình khỏi mạch truyện, để lại cầm bút lên tiếp tục
cuộc hành trình vào ngày hôm sau.
NPV
Ông
có sắp
xếp câu chuyện theo trình tự không?
ECO
Ôi,
không hề.
Một ý tưởng nảy ra tức thì giữa ý tưởng khác. Một
quyển sách ngẫu nhiên khiến tôi lại muốn đọc một
quyển khác nữa. Và điều đó xảy ra ngay cả khi đang
đọc một tài liệu hoàn toàn vô dụng, tôi cũng đột
nhiên có được một ý tưởng phù hợp để đưa
câu chuyện tiến triển. Cũng như việc chèn thêm một
chiếc hộp nhỏ vào trong một tập hợp lớn hơn những
chiếc hộp đã được xếp lại với nhau.
NPV
Ông
từng
nói rằng khi viết một cuốn tiểu thuyết, đầu tiên ông
thường tạo ra một thế giới rồi để cho “thế
giới đó tự vận hành”. Ý ông là phong cách của một
tiểu thuyết được định hình bằng chính đối tượng
mà nó hướng tới?
ECO
Đúng
vậy,
đối với tôi điều quan trọng nhất là dựng nên một
thế giới: một tu viện với những thầy tu bị đầu
độc, một người đàn ông trẻ chơi trumpet giữa một
nghĩa trang, một kẻ khoác lác mắc kẹt trong cuộc vây
thành Constantinope. Tìm tòi nghĩa là đặt ra tất cả các
giới hạn cho những thế giới ấy: Cầu thang xoắn có
bao nhiêu bậc? Danh sách đồ giặt là có bao nhiêu món?
Một nhiệm vụ cần đến bao nhiêu chiến binh? Thế giới
sẽ được bao trọn bởi những giới hạn đó. Từ góc
độ văn chương, tôi cảm thấy rằng chúng ta thường mắc
phải sai lầm khi cho rằng phong cách chỉ gói gọn trong cú
pháp và từ vựng. Vì ngoài những yếu tố đó ra, còn có
cách thức kể chuyện, mà qua đó, những miếng ghép được
đặt cạnh nhau và tạo nên một tình huống. Ví dụ như
flashback (hồi ức). Flashback là một yếu tố tạo nên
phong cách, nhưng lại không hề liên quan đến ngôn từ.
Vậy nên phong cách phức tạp hơn nhiều so với việc
phóng chữ trên giấy. Đối với tôi, phong cách có vai trò
giống như là công việc dựng phim trong điện ảnh vậy.
NPV
Ông
đã làm thế
nào để giọng văn trở nên mượt mà?
ECO
Một
trang viết ra, tôi thường chữa đi chữa lại cả chục
lần. Đôi khi tôi thích đọc thành tiếng một đoạn văn
nào đó. Tôi cực kỳ nhạy cảm với từng sắc thái
trong tác phẩm của mình.
NPV
Vậy
cũng giống như Flaubert, viết ra được một câu văn hay
là một điều vô cùng khổ sở?
ECO
Không,
tôi không cảm
thấy khổ sở gì đâu. Tôi phải viết lại cùng một câu
văn vài ba lần, nhưng bây giờ, nhờ vào chiếc máy tính,
quá trình ấy đã có thay đổi. Tôi viết tay bản thảo
Tên của Đóa Hồng rối đưa thư ký đánh máy lại trên
máy chữ. Khi bạn viết đi viết lại một câu đến mười
lần, thật khó để mà chép lại nó nữa. Với máy tính
như hiện nay, rất dễ dàng để rà qua rà lại môt trang
mười đến hai mươi lượt một ngày, sửa chữa và viết
lại. Tôi tin rằng, về bản chất, chúng ta không bao giờ
hài lòng với việc mình đã làm. Nhưng giờ đây thì mọi
chuyện thật dễ dàng, có lẽ là quá dễ, để chỉnh sửa
mọi thứ. Có lẽ vì vậy mà giờ đây chúng ta lại có
những yêu cầu khắc khe hơn.
NPV
Bildungsroman
thường
được
xây dựng dựa trên những giai đoạn trưởng thành của
tình cảm và tính dục. Nhưng trong các tiểu thuyết của
mình, ông chỉ miêu tả có hai cảnh có yếu tố tình dục
– một trong Tên của Đóa Hồng và một trong Baudolino. Có
lý do gì cho điều đó không?
ECO
Tôi
nghĩ đơn
giản là tôi thích làm tình hơn là viết về chuyện đó.
NPV
Vậy
tại sao Adso lại trích dẫn Song
of Songs (Sách Diễm
ca) khi trong khi anh ta đang làm tình với cô gái nông dân
trong Tên của Đóa Hồng?
ECO
Đó
là một
thủ pháp gây cười, vì tôi không thực sự quan tâm đến
cảnh làm tình, mà điều tôi muốn miêu tả ở đây là
một thầy tu trẻ sẽ có trải nghiệm tình dục như thế
nào khi nó được nhìn nhận qua “phông” văn hóa của
anh ta. Vậy nên tôi chọn ra ít nhất năm mươi đoạn
trích từ các sách mặc khải, miêu tả trạng thái hân
hoan của con người khi nhận ra sự hiện diện của thánh
thần, cùng với đoạn trích từ Songs of Songs. Trong suốt
hai trang sách miêu tả cảnh làm tình đó, chỉ có vài từ
là của tôi. Adso chỉ có thể hiểu tình dục qua lăng
kính của văn hóa mà anh ta đã hấp thụ từ trước. Đó
là một ví dụ cho văn phong, như tôi đã định nghĩa (ở
trên).
NPV
Ông
thường
viết vào thời điểm nào trong ngày?
ECO
Không
có một
nguyên tắc cố định nào cả. Đối với tôi, lịch trình
là điều không thể. Đôi khi tôi bắt đầu viết lúc bảy
giờ sáng và kết thúc lúc ba giờ đêm, chỉ dừng lại
để ăn một ổ bánh mỳ. Đôi khi tôi lại không hề cảm
thấy mình cần phải viết.
NPV
Khi
đã viết,
ông thường viết được bao nhiêu mỗi ngày? Hay cũng
không có quy định nào?
ECO
Không
có quy định
nào hết. Nghe này, viết lách không nhất thiết phải có
nghĩa là rải chữ lên một tập giấy. Người ta có thể
viết một chương sách ngay trong khi đang đi dạo bộ hoặc
đang ăn.
NPV
Vậy
mỗi ngày đối với ông đều khác biệt?
ECO
Khi
tôi ở
ngôi nhà ở vùng quê, trên đỉnh đồi Montefeltro, thì tôi
cũng có một vài thói
quen. Bật máy tính, liếc qua chỗ emails, đọc vài thứ và
ngồi viết cho đến chiều. Sau đó tôi sẽ đi vào làng,
uống một ly ở quần bar và đọc tin tức. Rồi tôi trở
về nhà, xem ti-vi hoặc đĩa DVD cho đến mười một giờ
tối, rồi tôi làm việc thêm chút nữa đến hai giờ
sáng. Ở đó tôi có thông lệ như thế vì tôi không bị
làm phiền. Khi ở Milan hoặc ở trường đại học, tôi
không thể làm chủ thời gian của mình – luôn có ai đó
quyết định những gì tôi cần phải làm lúc này hay lúc
khác.
NPV
Khi
ngồi
xuống viết, ông có cảm thấy lo lắng gì không?
ECO
Tôi
không có nỗi
lo lắng nào hết.
NPV
Ông
không cảm
thấy lo lắng, vậy ông chỉ vô cùng phấn khích mà thôi?
ECO
Trước
khi ngồi xuống viết, tôi thật lòng cảm thấy hạnh
phúc.
NPV
Có
bí quyết
gì cho khả năng sáng tác dồi dào như thế? Ông đã viết
một số lượng vô cùng lớn các công trình nghiên cứu,
và năm cuốn tiểu thuyết của ông cũng không hề ngắng
chút nào.
ECO
Tôi
luôn nói rằng
tôi có khả năng tận dụng những kẽ hở. Có vô cùng
nhiều những khoảng trống giữa các nguyên tử với các
nguyên tử, giữa các electron với các electron, và nếu như
ta có thể thu gọn vật chất trong vũ trụ bằng cách loại
trừ những khoảng trống đó, cả vũ trụ có thể được
nén vào trong một quả bóng. Cuộc đời của chúng ta tràn
ngập những khoảng trống như thế. Buổi sáng hôm nay cô
đã nhấn chuông nhưng rồi cô phải đợi thang máy, và
phải mất một vài giây cô mới đến đứng trước cánh
cửa. Trong vài giây đó, trong lúc đợi cô, tôi đang nghĩ
về câu chuyện đang dang dở. Tôi có thể làm việc trong
nhà vệ sinh, hay trên tàu. Khi bơi tôi nghĩ ra rất nhiều
thứ, nhất là khi bơi ở biển. Trong bồn tắm thì ít
hơn, nhưng vẫn có.
NPV
Có
khi nào ông không làm việc
không?
ECO
Không,
điều
đó không xảy ra. À, mà cũng có đấy, là hai ngày hồi
tôi phải làm phẫu thuật
.
NPV
Thú
vui lớn
nhất của ông hiện tại là gì?
ECO
Đọc
tiểu thuyết ban đêm. Đôi khi tôi tự hỏi lẽ nào, như
một tín đồ Thiên Chúa thiếu lòng trung, lại có một
giọng nói du dương thì thầm vào tai tôi rằng tiểu
thuyết là quá dễ dãi để đọc vào ban ngày. Bởi
lẽ đó, ban ngày thường dành cho tiểu luận và những
việc cần nhiều công sức hơn.
NPV
Thế
còn các khoái lạc thì sao?
ECO
Tôi
có đi xưng
tội đâu cơ chứ! Nhưng OK thôi, là rượu Scotch. Thuốc
lá cũng là một lạc thú trước khi tôi từ bỏ cách đây
ba năm. Tôi có thể hút sáu điếu một ngày. Nhưng tôi là
người hút tẩu kiểu cũ nên tôi có thói quen xua khói ra
xa khi đang viết. Vậy nên tôi cũng không hít nhiều khói
vào lắm đâu.
NPV
Ông
từng
bị chỉ trích vì tính
hàm lâm được phô diễn trong các tác phẩm của mình.
Một nhà phê bình còn đi xa hơn khi nói rằng mục đích
của của tác phẩm là khiến cho một người đọc phổ
thông cảm thấy bản thân đáng thương hại vì sự ngu
dốt, thái độ đó sau này sẽ chuyển thành lòng ngưỡng
mộ ngây thơ đối với màn trình diễn của ông.
ECO
Tôi
có phải
kiểu ác dâm hay không? Tôi không biết. Hay là một kẻ
phô dâm (exhibitionist).
Có thể.
Nhưng tôi đang đùa thôi, đương nhiên là không rồi! Tôi
không làm việc nhiều đến thế trong cả đời mình chỉ
để khoe khoang kiến thức trước độc giả. Trên thực
tế, tri thức đóng vai trò trụ cột trong cấu trúc phức
tạp của các tiểu thuyết mà tôi đã viết. Sau đó,
chính độc giả mới là người quyết định họ có thể
tìm thấy điều gì.
NPV
Ông
có nghĩ rằng
thành công có tính đại chúng với tư cách là một tiểu
thuyết gia đã thay đổi suy nghĩ của ông về vai trò của
người đọc?
ECO
Sau
một
thời gian quá dài làm công việc nghiên cứu, bắt tay vào
viết tiểu thuyết cũng giống như một nhà phê bình sân
khấu bỗng dưng bước ra dưới ánh đèn và bị tất cả
những đồng nghiệp cũ – giới phê bình – nhìn chòng
chọc. Lúc mới đầu, tôi đã khá bối rối.
NPV
Nhưng
việc viết tiểu thuyết có thay đổi suy nghĩ của ông về
sự ảnh hưởng của mình đối với độc giả, trong vai
trò là một tác giả?
ECO
Tôi
luôn cho rằng
một cuốn sách hay thì thông minh hơn người viết ra nó.
Cuốn sách có thể nói những điều nằm ngoài ý định
của người viết.
NPV
Ông
có nghĩ rằng
địa vị của một tiểu thuyết gia lẫy lừng đã khiến
cho danh tiếng của ông, như một nhà tư tưởng nghiêm túc
ở tầm thế giới, bị suy giảm?
ECO
Từ
khi
xuất bản tiểu thuyết, tôi đã nhận được ba mươi lăm
tấm bằng danh dự từ khắp nơi trên thế giới. Với sự
thật này, tôi kết luận là câu trả lời cho câu hỏi
của cô sẽ là Không. Trong môi trường đại học, các
giáo sư cảm thấy hứng thú với sự giao động giữa
truyện kể và lý thuyết. Họ thường tìm thấy những
mối liên hệ giữa hai khía cạnh này hiện hữu trong công
việc của tôi, đôi khi chính tôi còn không tin rằng chúng
tồn tại. Nếu cô muốn, tôi sẽ cho cô xem cả một bức
tường kín đặc những nghiên cứu khoa học về tôi.
Bên
cạnh
đó, tôi vẫn tiếp tục đưa ra những tiểu luận về các
lý thuyết. Tôi tiếp tục sống như một giáo sư, người
viết tiểu thuyết vào mỗi cuối tuần, thay vì sống như
một nhà văn kiếm sống thêm bằng cách đi dạy ở trường
đại học. Tôi tham dự các chuyên đề khoa học nhiều
hơn là các “hội thảo viết lách”. Thực tế thì, ai
đó có thể nói điều ngược lại: có lẽ công việc hàn
lâm đã làm lu mờ danh tiếng nhà văn của tôi trên báo
chí đại chúng.
NPV
Nhà
thờ
Công Giáo đã từng làm khó ông. Tờ tin của Vatican đánh
giá Foucault’s
Pendulum là “đầy
rẫy sự báng bổ, lăng mạ, nhảm nhí, tục tĩu – tất
cả được phô bày cùng với thói ngạo mạn và những
lời lẽ xúc xiểm cay độc.”
ECO
Điều
lạ lùng là tôi mới được nhận bằng danh dự từ hai
trường đại học Công giáo, Leuven và Loyola.
NPV
Ông
có tin vào Chúa không?
ECO
Tại
sao ta lại phải lòng một người rồi ngay ngày hôm sau
tình yêu bỗng bỏ ta đi? Cảm xúc, than ôi, luôn biến mất
mà không một lời giải thích, và thường không để lại
một dấu vết nào.
NPV
Nếu
ông không tin vào Chúa, tại sao ông lại dành nhiều thời
gian viết về tôn giáo như vậy?
ECO
Bởi
vì tôi tin vào tôn giáo. Con người là một động vật có
tôn giáo, và đó là một đặc tính riêng của hành vi
loài người mà ta không thể lờ đi hay loại bỏ được.
NPV
Cùng
với nhà học giả và tiểu thuyết gia, có một nhân cách
thứ ba nữa trong ông – một dịch giả. Tác phẩm của
ông đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng, và ông
cũng đồng thời là một dịch giả đã viết rất nhiều
về những vấn đề của công việc chuyển ngữ.
[You
are a widely translated translator who has written at length on the
conundrums of translation]
ECO
Tôi
đã biên tập vô số các bản dịch, tự mình dịch hai
công trình, và có tiểu thuyết dịch sang cả chục thứ
tiếng. Và tôi nhận ra rằng mỗi bản dịch là một lần
đàm phán. Nếu cô bán cái gì đó cho tôi và tôi mua nó,
chúng ta đàm phán – cô sẽ mất cái gì đó, tôi cũng
mất cái gì đó, nhưng rốt cuộc trong chúng ta cũng sẽ
phải thỏa hiệp. Khi chuyển ngữ, văn phong không hơn gì
từ ngữ, đều có thể được dịch tự động trên trang
Altavista [Altavista, từng cung cấp công cụ dịch Babel Fish,
giờ đã thuộc sở hữu của Yahoo!], nhưng vẫn cần giai
điệu. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm
trên tác phẩm The Betrothed của Manzoni, một tuyệt tác của
văn học Ý thế kỷ mười chín. Manzoni có vốn tự vựng
cực kỳ nghèo nàn, không hề sử dụng những phép ẩn dụ
tân tiến, và lặp đi lặp lại một tính từ nhiều đến
phát khiếp [used
the adjective good a frightening amount of times],
nhưng văn phong của ông ấy thật xuất sắc, trong sáng và
giản dị. Để dịch được nó, cũng là quy chuẩn để
đánh giá mọi bản dịch khác, ta phải tìm cách làm nổi
bật được nội lực [anima] trong thế giới của ông ấy,
chính là nhịp thở của tác phẩm: tính chính xác trong
từng tiết tấu.
NPV
Ông
tham gia vào việc
chuyển ngữ các tác phẩm của mình như thế nào?
ECO
Tôi
đọc
mọi bản dịch của các ngôn ngữ mà tôi có thể đọc.
Thường thì tôi luôn vui vẻ khi các dịch giả và tôi
được làm việc cùng nhau, vì tôi đã may mắn có được
những dịch giả đó đồng hành trong suốt cuộc đời.
Đến nay, chúng tôi cùng cộng tác trong một sự hiểu
biết lẫn nhau. Tôi cũng có dịp làm việc với các dịch
giả trong những ngôn ngữ mà tôi không biết, như là
tiếng Nhật, tiếng Nga và tiếng Hungary, bởi vì họ rất
thông minh nên họ có khả năng giải thích cho tôi hiểu
vấn đề là gì khi chuyển ngữ sang ngôn ngữ của họ,
và chúng tôi có thể thảo luận để giải quyết vấn đề
ấy.
NPV
Có
khi nào một
dịch giả giỏi gợi mở ra những khả năng mà ông chưa
từng nhận thấy trong văn bản gốc?
ECO
Có
chứ,
đều đó có thể xảy ra. Tôi xin nhắc lại, văn bản có
thể thông minh hơn chính tác giả. Đôi khi văn bản có
thể gợi mở những ý tưởng mà tác giả không hề biết
tới. Người dịch, bằng cách đưa văn bản sang một ngôn
ngữ khác, có thể phát hiện ra những ý tưởng mới và
lật mở nó cho ta.
NPV
Ông
có đọc
tiểu thuyết của các tác giả cùng thời không?
ECO
Không
nhiều
lắm. Từ khi trở thành tiểu thuyết gia, tôi nhận thấy
rằng mình có phần thiên lệch. Hoặc là tôi thấy một
cuốn tiểu thuyết dở hơn cuốn của tôi và tôi không
thích nó, hoặc là tôi ngờ là nó tốt hơn cuốn của tôi
và cũng không thích nó nốt.
NPV
Ông
nghĩ thế
nào về tình trạng của văn học Ý ngày nay. Liệu ở Ý
có những tác giả vĩ đại như đã từng có trên đất
Mỹ?
ECO
Tôi
không biết
liệu có những tác giả vĩ đại không, nhưng hẳn là
chúng ta đã nâng tầm những tác giả trung bình. Sức mạnh
của văn học Mỹ, như cô thấy đấy, không chỉ đơn
giản là có được Faulkner, Hemingway hay Bellow, mà còn cần
phải có một binh đoàn hung hậu các tác giả tầm trung
có khả năng tạo ra một nền văn học thương mại đủ
sức nặng. Dòng văn học này cần đến một sự thành
thạo nhất định, nhất là trên mảnh đất màu mỡ của
tiều thuyết trinh thám – đối với tôi là một kiểu
thang đo cho sản lượng của bất cứ nền văn học nào.
Binh đoàn của các nhà văn bậc trung đó chứng tỏ rằng
nước Mỹ có khả năng cung cấp đủ sản phẩm để làm
thỏa mãn nhu cầu của độc giả Mỹ. Đó là lý do
vì sao họ dịch rất ít. Ở Ý, thể loại văn học đó
đã biến mất một thời gian khá dài, nhưng giờ đây ít
nhất đã có một nhóm nhà văn trẻ đang xuất bản loại
sách như thế. Tôi không phải là một trí thức hợm
hĩnh, tôi không nghĩ , mà tôi nhận ra rằng dòng văn học
đó là một phần trong văn hóa đọc của một đất nước.
NPV
Nhưng
vì
sao chúng ta không nghe danh những nhà văn Ý? Vào thời điểm
này, có lẽ ông là nhà văn Ý duy nhất được đọc trên
toàn thế giới, hoặc nếu không, ít nhất cũng là trong
một phạm vi rộng lớn.
ECO
Dịch
thuật là một vấn đề. Ở Ý, hơn 20% sản phẩm trên
thị trường là sách dịch. Ở Mỹ, tỉ lệ chỉ là 2%.
NPV
Nabokov
từng
nói “Tôi
phân chia văn học ra làm hai loại: những cuốn sách tôi
ước mình đã từng viết và những cuốn tôi đã viết
rồi.”
ECO
Thôi
được
rồi, tôi
sẽ xếp vào loại đầu tiên sách của Kurt Vonnegut, Don
Delillo, Philip Roth và Paul Auster. Nhìn chung thì tôi thích
văn học Mỹ đương đại hơn là văn học Pháp, dù nền
tảng văn hóa của tôi ảnh hưởng chủ yếu từ Pháp cho
những gần gũi về mặt địa lý. Tôi được sinh ra gần
biên giới, và tiếng Pháp là ngôn ngữ đầu tiên tôi
được học. Có lẽ tôi còn biết về văn học Pháp nhiều
hơn là văn học Ý.
NPV
Và
nếu
như ông phải nêu ra các ảnh hưởng?
ECO
Thường
thì tôi sẽ nói Joyce và Borges để khiến người phỏng
vấn thôi hỏi thêm, dù điều đó không hoàn toàn đúng. Gần
như tất cả đều có ảnh hưởng lên tôi. Joyce và
Borges, hẳn nhiên rồi, nhưng cả Aristotle, thánh Thomas
Aquinas, John Locke … bất cứ ai cô có thể nghĩ ra.
NPV
Thư
viện của ông tại Milan chứa đựng một huyền thoại
trong
chính bản thân nó. Ông thích sưu tầm loại sách nào?
ECO
Tôi
sở
hữu tổng cộng khoảng năm mươi nghìn quyển sách.
Nhưng
là một người sưu tầm sách hiếm, tôi đặc biệt bị
lôi cuốn bởi xu hướng ưa thích những điều nhảm nhí
của con người. Vậy nên tôi sưu tầm sách về tất cả
các chủ đề mà tôi không tin, như là kabbalah
[phép
thuật của người Do Thái], trò
giả
kim, phép
thuật, các kiểu giả-ngôn ngữ. Những cuốn sách nói
dối, dù không cố tình. Tôi có cả Ptolemy, chứ không
phải Galileo, vì Galileo nói sự thật. Tôi để ý đến
khoa học bên lề như vậy hơn [lunatic science].
NPV
Với
nhiều sách như vậy, làm sao ông có thể biết
hôm đó sẽ chọn quyển nào để đọc?
ECO
Tôi
không đến
bên giá sách để chọn sách đọc. Tôi đến bên giá sách
để lấy cuốn sách mà tôi biết là mình cần khi ấy. Đó
là hai chuyện khác hẳn nhau. Ví dụ như, nếu cô hỏi tôi
về các tác giả đương đại, tôi sẽ nhìn về phía bộ
sưu tập các tác phẩm của Roth hoặc Delillo để nhớ xem
chính xác mình thích cuốn nào. Tôi là một học giả.
Chính vì thế tôi có thể nói rằng tôi không bao giờ
được tự do lựa chọn. Tôi hành động theo yêu cầu của
công việc mà tôi đang làm, bất kể đó là lúc nào.
NPV
Ông
có cho, tặng
sách bao giờ
không?
ECO
Tôi
nhận
một số lượng khổng lồ sách mỗi ngày: tiểu thuyết,
ấn bản mới của số sách mà tôi đã có, mỗi tuần tôi
lại đóng vài thùng và gửi đến trường đại học của
tôi, nơi có một cái bàn to mà trên đó có một dấu hiệu
gợi ý rằng ta hãy chộp lấy một cuốn sách và chạy
cho thật nhanh.
NPV
Ông
là một
trong những trí thức được đông đảo công chúng biết
đến nhất. Vậy ông định nghĩa thế nào về từ “trí
thức”? Liệu nó còn có một ý nghĩa đặc biệt hay
không?
ECO
Nếu
định nghĩa khái niệm
“trí
thức” [intellectual] như một người chỉ làm việc bằng
cái đầu chứ không với đôi tay, thì một nhân viên ngân
hàng là trí thức còn Michelangelo thì không. Và ngày nay,
với một chiếc máy tính, tất cả mọi người đều là
trí thức. Vậy nên tôi nghĩ rằng không có gì để nói
về nghề nghiệp của một người, hay địa vị xã hội
của họ. Theo tôi, một trí thức là người sáng tạo ra
tri thức mới. Một người nông dân hiểu rằng chiết cây
ghép cành cho thể cho ra một giống táo mới, đó chính là
lúc người đó thực hiện một hoạt động trí thức.
Trong khi đó, một giáo sư triết học cả đời lặp đi
lặp lại một bài giảng về Heidegger không thể được
coi là một trí thức. Phê bình sáng tạo [critical
creativity] – phê bình chính những gì chúng ta đang làm
hoặc tìm ra cách tốt hơn để làm điều ấy, chính là
dấu hiệu duy nhất của một trí thức vẹn toàn.
NPV
Trí
thức
ngày nay có còn thiết
tha với
khái niệm nghĩa vụ chính trị [political
duty], như chúng ta ở vào thời điểm của Sartre và
Foucault?
ECO
Tôi
không tin rằng
để thực hiện nghĩa vụ chính trị, người trí thức
phải hành động như thành viên của một đảng phái, hay
tệ hơn, chỉ quan tâm đến những vấn đề xã hội đương
thời. Những trí thức nên tham gia vào chính trị như bất
cứ công dân nào khác. Ở mức độ cao nhất, một trí
thức có thể dùng danh tiếng của mình để ủng hộ một
quan điểm nào đó. Nếu như ở đây có một tuyên bố
nào đó liên quan đến vấn đề môi trường, ví dụ như
vậy, một chữ ký của tôi có thể giúp gì đó, vậy thì
tôi sẽ dùng danh tiếng của mình cho động thái chung đó.
Vấn đề ở đây là người trí thức chỉ có ích trong
một tương lai có liên đới đến họ, chứ không phải
trong thực tại. Nếu như ta ở trong một nhà hát đang bốc
cháy, một nhà thơ sẽ không trèo lên ghế và đọc thơ.
Anh ta phải gọi lính cứu hỏa đến, như mọi người
khác. Nhiệm vụ của người trí thức là nói lên điều
đó từ trước khi sự việc xảy ra: Hãy để tâm đến
nhà hát đó vì nó đã cũ kỹ và nguy hiểm! Như vậy, lời
nói của anh ta sẽ có chức năng dự đoán của một lời
kêu gọi hành động. Nhiệm vụ của người trí thức là
nói, Chúng ta cần làm điều này, chứ không phải là
Chúng ta phải làm điều kia ngay bây giờ! – đó là nhiệm
vụ của chính trị gia. Nếu như xã hội không tưởng
[utopia] của Thomas More có tồn tại, tôi ngờ rằng đó sẽ
là một kiểu xã hội như dưới thời Stalin.
NPV
Tri
thức
và văn hóa đã đem lại lợi ích gì cho cuộc đời ông?
ECO
Nếu
một người mù chữ chết vào tuổi của tôi chỉ sống
được môt cuộc đời, còn tôi thì đã sống được cuộc
đời của Napoleon, Caesar, d’Artagnan. Vậy nên tôi luôn
khuyến khích các bạn trẻ đọc sách, bởi vì đó là ý
tưởng tuyệt vời để bồi đắp một trí nhớ tốt và
một nhân cách rộng mở. Và khi đến cuối đời mình,
bạn đã sống được vô số cuộc đời khác, đó là một
đặc ân tuyệt vời.
NPV
Nhưng
một trí nhớ siêu
phàm cũng có thể là một gánh nặng vô cùng. Giống như
trường hợp của Funes, một những nhân vật Borges đã
sáng tạo ra và được ông ưa thích, trong truyện “Funes
the Memorious” .
ECO
Tôi
thích khái niệm
cứng đầu-thờ ơ [stubborn incuriosity]. Để có được khả
năng đó, ta phải tự giới hạn bản thân trong một số
phạm vi kiến thức.Ta không thể nào nhồi nhét mọi thứ
vào mình được. Ta phải bắt mình không được học tất
cả mọi điều trên đời. Nếu không, ta sẽ không học
được bất cứ thứ gì cả. Hỏi hỏi [culture], theo nghĩa
này, là học cách lãng quên. Còn không, một người sẽ
trở nên như Funes, người nhớ chính xác mọi chiếc lá
trên cái cây anh ta đã nhìn thấy từ ba mươi năm trước.
Hãy học cách phân biệt điều bạn muốn học và điều
bạn muốn nhớ, đó chính là điểm tối quan trọng để
có được nhân thức cho riêng mình.
NPV
Nhưng
không
phải chính việc văn hóa [culture], theo nghĩa rộng, đã là
một tấm lọc rồi sao?
ECO
Đúng
vậy,
văn hóa của mỗi chúng ta (our private culture – cũng chính
là học hỏi), là một lựa chọn phụ trợ, vì văn hóa,
theo nghĩa rộng, đã có hàm ý phân biệt. Theo cái nhìn
đó, văn hóa là một quá trình trong đó một cộng đồng
gợi ý cho ta đều gì cần nhớ và điều gì cần quên.
Khi nhìn vào mỗi cuốn bách khoa tri thức, chính văn hóa
quyết định rằng cuộc sống của Calpurnia sau cái chết
cua chồng bà, Julius Caeser là không đáng nhắc đến. Hầu
như không có gì đặc biệt xảy ra với bà. Trong khi đó,
Clara Schumann
lại
trở nên quan trọng hơn sau cái chết của Schumann.
Người
ta đồn rằng bà là người tình của Brahms, vì rồi bà
trở thành một nghệ sĩ piano được đánh giá cao nhờ
vào chính khả năng của mình. Và tất cả đều đúng cho
đến khi một nhà sử học đưa ra được một văn bản
chưa từng thấy trước đây, chứng minh rằng một điều
chúng ta từng thờ ơ, lại là điều gì đó quan trọng.
Nếu
như văn hóa không phải là một tấm lọc, thì nó sẽ trở
nên vô nghĩa – cũng giống hệt như bản chất mênh mang
nhưng mờ mịt của Internet. Nếu có được tất cả những
tri thức vô hạn ấy, chúng ta sẽ trở nên đần độn
hết cả! Văn hóa là một công cụ để tạo nên hệ
thống thứ bậc trong lao động trí óc. Tôi và cô chỉ
cần biết rằng, Einstein là người đã đưa ra thuyết
tương đối. Nhưng việc thực sự hiểu được lý thuyết
đó, ta hãy để cho các chuyên gia. Vấn đề thực sự là
có quá nhiều người tin rằng mình có quyền trở thành
một chuyên gia như thế.
NPV
Ông
nghĩ gì về
những lời cảnh báo về cái chết của tiểu thuyết, của
sách, hay cái chết của văn hóa đọc?
ECO
Tin
vào
đoạn kết của một điều gì đấy là một thái độ
văn hóa hết sức điển hình. Từ thời Hy Lạp, La Mãn,
chúng ta đã không ngừng tin rằng tổ tiên vượt trội
hơn mình. Tôi luôn thấy vui thích và hứng thú với cuộc
chạy đua này, điều mà truyền thống đại chúng đã
khai thác với cường độ ngày càng mạnh mẽ hơn. Mỗi
mùa lại có một bài báo về sự cáo chung của tiểu
thuyết, sự chấm dứt của văn chương, cái chết cho văn
hóa đọc ở nước Mỹ. Người ta không còn đọc nữa!
Thanh thiếu niên chỉ biết chơi video games! Sự thật của
vấn đề là khắp nơi trên thế giới vẫn có hàng nghìn
cửa hiệu đầy sách và đầy những độc giả trẻ.
Trong lịch sử loài người chưa từng có nhiều sách đến
thế, nhiều nơi bán sách đến thế, với chừng đó người
trẻ ghé thăm và mua sách.
NPV
Vậy
ông sẽ nói gì với những người tuyên truyền thái quá
đó?
ECO
Văn
hóa liên tục
biến đổi để thích nghi với hoàn cảnh mới. Đó có
thể là một văn hóa hoàn toàn mới, nhưng đó sẽ luôn
là văn hóa. Sau sự sụp đổ của Đế chế La Mã, nhiều
thế kỷ đã chứng kiến những thay đổi sâu sắc, về
ngôn ngữ, chính trị, tôn giáo và văn hóa. Chừng đó
thay đổi đang diễn ra hiện nay với tốc độ nhanh gấp
mười lần. Nhưng những dạng thức mới thú vị sẽ xuất
hiện và văn học sẽ vượt qua thử thách.
NPV
Trước
đây ông từng nói, ông muốn mình được nhớ tới như
là một học giả hơn là một tiểu thuyết gia. Điều
đó đúng chứ?
ECO
Tôi
không nhớ
đã nói điều đó, vì kiểu tuyên bố như thế sẽ thay
đổi tùy theo hoàn cảnh tôi nhận được câu hỏi. Nhưng
ở thời điểm này, kinh nghiệm đã dạy tôi rằng công
trình của một học giả phải chật vật để tồn tại,
vì các lý thuyết luôn đổi mới liên tục. Aristotle sống
sót, nhưng vô vàn công trình cách đây một thế kỷ đã
không được tái bản. Trong khi đó, rất nhiều tiểu
thuyết vẫn còn lại với chúng ta đến ngày nay. Dựa vào
sự thật đó, có thể thấy rằng cơ hội được nhớ
tới như một nhà văn cao hơn là như một học giả, và
tôi nhận thức những bằng chứng này một cách rạch
ròi, dù chúng không được như ước muốn của tôi.
NPV
Đối
với ông, ý niệm rằng tác phẩm của mình sẽ được
nhớ đến có tầm quan trọng như thế nào? Ông có thường
nghĩ đến di sản của mình không?
ECO
Tôi
không tin một
người chỉ viết cho bản thân mình đọc. Tôi tin rằng
viết là một cử chỉ của tình yêu – bạn viết để
dành tặng điều gì cho ai đó. Để giao tiếp. Để chia
sẻ với người khác những cảm xúc của mình. Câu hỏi
tác phẩm của mình sẽ tồn tại trong bao lâu luôn là câu
hỏi cơ bản đối với mỗi người viết, không chỉ là
với tiểu thuyết gia hay nhà thơ. Sự thật là, triết gia
viết sách để thuyết phục nhiều người tin vào lý
thuyết của ông ta, và hy vọng ba nghìn năm sau, nhân loại
vẫn sẽ đọc được nó. Điều đó cũng giống như ta hy
vọng rằng con cái sẽ tưởng nhớ mình, và nếu như bạn
có cháu chắt, nó cũng sẽ tưởng nhớ con cái bạn. Mỗi
người đặt niềm hy vọng vào một sự nối tiếp. Khi
một nhà văn nói, Tôi không quan tâm đến số phận các
cuốn sách của tôi, anh ta đơn giản là một kẻ dối
trá. Anh ta nói điều đó chỉ để làm hài lòng người
phỏng vấn.
NPV
Đến
thời điểm này ông có mối ân hận nào không?
ECO
Tôi
hối
hận mọi thứ, vì tôi đã phạm phải vô cùng, vô cùng
nhiều sai lầm trên mọi bước đường đời. Nhưng nếu
tôi được bắt đầu lại, thì thành thật mà thôi, tôi
nghĩ mình sẽ lặp lại những sai lầm y như vậy. Tôi nói
nghiêm túc đấy nhé. Tôi đã dành cả đời mình quan sát
mọi hành vi và tư tưởng, rồi chỉ trích bản thân. Tôi
nghiêm khắc đến nỗi tôi sẽ không bao giờ cho cô biết
điều tôi tự trách bản thân mình ghê gớm nhất là gì,
ngay cả khi cô ra giá một triệu dollars.
NPV
Có
cuốn
sách nào ông chưa bao giờ viết nhưng lại ước ao mình
đã từng?
ECO
Có,
chỉ
một cuốn thôi. Cho đến tuổi năm mơi và trong suốt
những năm tháng tuổi trẻ, tôi đã ước ao có thể viết
được một cuốn sách về lý thuyết hài kịch. Tại sao
ư? Bởi vì tất cả các cuốn sách về chủ đề này đều
thất bại, ít nhất là tất cả những cuốn tôi từng
đọc. Tất cả những nhà lý luận về hài kịch, từ
Freud cho đến Bergson, đã giải thích một vài khía cạnh
của loại hình này, nhưng chưa ai chạm được vào nó một
cách toàn diện. Vậy nên tôi tự nhủ với bản thân, hẳn
là mình sẽ muốn viết nên một lý thuyết thực sự về
hài kịch. Nhưng rồi việc đó trở nên quá khó khăn. Nếu
tôi biết vì sao nó lại khó đến thế, chắc tôi đã có
câu trả lời và viết ra cuốn sách.
NPV
Nhưng
ông đã viết sách về cái Đẹp và gần đây, về cái
Xấu. Những khái niệm đó không phải rất khó nắm bắt
hay sao?
ECO
So
với
cái Đẹp và cái Xấu, hài kịch đáng
sợ hơn nhiều. Tôi không nói đến chuyện cười cợt,
xin cô lưu ý cho. Không đâu, những sắc thái tình cảm bí
ẩn trong vở hài kịch nó phức tạp đến nỗi tôi không
tài nào giải thích được. Và ôi chao, chính bởi vậy mà
tôi đã không viết cuốn sách nào về nó.
NPV
Hài
kịch
có phải là một sáng tạo đặc trưng của con người
không, giống như bịa chuyện vậy?
ECO
Phải,
dường như là các loài động vật khác không có khiếu
hài hước. Chúng ta biết rằng chúng có thể giả vờ,
chúng biết buồn, mít ướt, chúng cũng đau khổ. Chúng ta
có bằng chứng là chúng vui, khi chúng vui đùa với ta,
nhưng không có gì chứng tỏ chúng có những cảm xúc hài
kịch. Đó là một trải nghiệm của riêng con người, bao
gồm… Nhưng mà không, tôi không thể nói chính xác được.
NPV
Tại
sao vậy?
ECO
Hừm,
được thôi.
Tôi ngờ rằng điều này có liên hệ với sự thật là
chúng ta là loại động vật duy nhất nhận thức được
rằng mình sẽ chết. Những loài khác không biết điều
đó. Chúng chỉ hiểu ra khi thời điểm cái chết đã cận
kề. Chúng không có khả năng tuyên ngôn bất cứ điều
gì tương tự như là khẳng định: Tất cả con người
đều chết. Chúng ta có khả năng làm điều đó, và đó
hẳn là lý do giải thích cho tôn giáo, lễ nghi và mọi
đều khác nữa. Tôi nghĩ rằng hài kịch là phản ứng
tinh túy nhất của con người đối với nỗi sợ cái
Chết. Tôi không thể nói thêm điều gì khác nữa. Như
tôi sẽ tạo ra một bí ẩn trống rỗng ngay bây giờ, để
cho mọi người nghĩ rằng tôi có một nghiên cứu về lý
thuyết hài kịch, vậy là khi tôi chết người ta sẽ tốn
cả đống thời gian để cố tìm cho được cuốn sách bí
ẩn của tôi.
Sự
thật là, ước
ao viết sách về hài kịch của tôi đã khiến tôi viết
Tên
của Đóa Hồng.
Đó là một trong những trường hợp cho thấy rằng, khi
ta không thể dựng nên một lý thuyết, thì ta chuyển
hướng sang kể một câu chuyện. Và tôi tin rằng trong Tên
của Đóa Hồng,
xuôi theo dòng truyện kể, tôi đã phát lộ được một
lý thuyết nào đó về hài kịch. Hài kịch như là một
biện pháp mạnh mẽ để ngăn chặn thói cuồng tín, hay
là một bóng mây ngờ vực ranh mãnh ẩn sau mỗi tuyên
ngôn về sự thật.
----
Bài gốc: http://www.theparisreview.org/interviews/5856/the-art-of-fiction-no-197-umberto-eco
Chú thích:
[1]
Người Neanderthal
là một
loài trong chi Người Homo Linnaeus, đã tuyệt chủng. Người
Neanderthal được xem là phụ loài so với nhánh chính là
Homo sapiens – chính là người hiện đại.
[2]
Nói thêm cho rõ: Umberto
Eco cho
rằng mọi hiện tượng văn hóa đều có thể được
nghiên cứu như là một dạng truyền thông (Nguồn:
Wikipedia - Caesar,
Michael (1999). Umberto Eco: Philosophy, Semiotics, and the Work of
Fiction. Wiley-Blackwell. tr. 55. ISBN 9780745608501.)
[3]
Xem thêm tại https://en.wikipedia.org/wiki/Deconstruction
[4]
Bí mật của hội Tam Điểm, xem thêm tại:
https://en.wikipedia.org/wiki/Freemasonry
[5]
Một lý thuyết cho rằng người Do Thái có âm mưu làm bá
chủ thế giới. Xem thêm tại
https://en.wikipedia.org/wiki/The_Protocols_of_the_Elders_of_Zion
Lần đầu tiên tôi gọi điện cho Umberto
Eco, ông đang ngồi bên chiếc bàn của mình, trong dinh thự
được xây từ thế kỷ mười bảy, trên ngọn đồi bên
rìa Urbino, gần vịnh Adriatic nước Ý. Ông cất lời ca
ngợi vẻ đẹp của cái bể bơi, nhưng lại lo rằng tôi
sẽ phải xoay xở với con đường núi đèo dốc quanh co.
Vậy nên chúng tôi quyết định cuộc gặp sẽ diễn ra ở
căn hộ của ông tại Milan. Tôi đến đây vào tháng Tám
đúng dịp ferragosto, đợt nắng nóng nhất mùa hè
và là ngày Nhà thờ Công giáo mừng Lễ Đức Mẹ lên
Trời. (Assumption of the Virgin Mary). Các tòa nhà gạch xám
của Milan lấp lánh trong cái nóng, với một lớp bụi mờ
phủ trên những vỉa hè. Đâu đó vang lên tiếng động
cơ xe. Đặt chân vào tòa nhà nơi Eco ở, tôi chui vào
chiếc thang máy có từ đầu thế kỷ và nghe liền thấy
tiếng kẹt cửa ở tầng trên. Vóc dáng bệ vệ của Eco
xuất hiện sau tấm cửa lưới bảo hộ thang máy.
“Ahhh”, ông kêu lên, hơi nhăn nhó.
Căn hộ là một mê cung hành lang với các
giá sách chạm đến tận cái trần nhà đặc biệt cao –
ba mươi nghìn cuốn, Eco nói, cộng với hai mươi nghìn
cuốn nữa trong dinh thự. Tôi bắt gặp các sách luận
khoa học của Ptolemy cùng với tiểu thuyết của Calvino,
nghiên cứu phê bình của Saussure và Joyce bên cạnh những
giá dành riêng cho lịch sử Trung Cổ và những bản chép
tay về các thuật bí truyền. Thư viện này trông thật
sống động, nhiều cuốn sách có vẻ được tra cứu rất
thường xuyên; Eco đọc nhanh và có trí nhớ phi thường.
Nhiều giá chứa tất cả công trình toàn tập của chính
Eco, được dịch ra các thứ tiếng (Ả Rập, Phần Lan,
Nhật Bản… tôi bỏ cuộc sau khi đếm được hơn ba mươi
ngôn ngữ). Eco chỉ vào những cuốn sách của mình với
một tính chính xác cao độ, thu hút sự chú ý của tôi
từ tập này sang tập khác, từ nghiên cứu lý thuyết phê
bình đầu tiên gây được tiếng vang, The Open Work,
cho đến tác phẩm gần đây nhất, On Ugliness.
Eco bắt đầu sự nghiệp của mình là một
học giả ngành nghiên cứu Trung Cổ và Ký hiệu học. Và
rồi vào năm 1980, ở tuổi bốn mươi tám, ông xuất bản
một cuốn tiểu thuyết: The Name of the Rose (Tên của
Đóa Hồng). Vị giáo sư hóa thành một ngôi sao trên diễn
đàn văn học. Các nhà báo theo đuôi, mỗi lời nhận định
văn hóa đều được thèm khát, hiểu biết uyên bác được
phát lộ, Eco trở thành nhà văn người Ý quan trọng nhất
còn sống. Từ thời điểm đó trở đi, ông tiếp tục
viết các tiểu luận huyễn tưởng, các công trình nghiên
cứu, thêm bốn tiểu thuyết bán chạy hàng đầu, trong đó
có Foucault Pendulum (1988) và The Mysterious of Queen Loana
(2004).
Bước theo bước chân nặng nề của Eco dọc
hành lang, chúng tôi bước vào phòng khách. Qua khung cửa
sổ, bóng hình sắc nét của một lâu đài thời Trung Cổ
in lên bầu trời thành Milan. Tôi đã hằng mong sẽ được
thấy những tấm thảm cùng với đồ cổ Ý, nhưng lại
bắt gặp đồ nội thất hiện đại, với tủ kính bày
vỏ sò và một vài cuốn truyện tranh, một cây đàn lute,
một bộ sưu tập ống sáo và một bộ cọ vẽ. “Cái
này này, là do Arman tặng riêng cho tôi đấy…”
Tôi ngồi trên chiếc trường kỷ dài màu
trắng, trong khi Eco yên vị trong chiếc ghế bành thấp,
điếu xì gà trên tay. Trước đây ông thường hút đến
sáu điếu thuốc lá một ngày, ông nói với tôi, nhưng
giờ chỉ còn một điếu xì gà không châm lửa. Sau câu
hỏi đầu tiên của tôi, đôi mắt khép hờ của Eco mở
bừng ra khi đến phiên ông trả lời. “Tôi nuôi dưỡng
niềm đam mê với thời Trung Cổ,” ông nói, “giống như
một số người cảm thấy hứng thú với cây dừa ấy.”
Ở Ý, ông rất nổi tiếng với battute của mình,
một kiểu thở hắt ra rất kịch mà ông nhấn nhá vào
giữa những vế câu trúc trắc của mình. Ông càng nói,
giọng ông như lại càng lớn thêm. Rồi ông bắt đầu
đưa ra các gạch đầu dòng, như thế đang say sưa trong
một lớp học: “Số 1: khi tôi viết The Name of the Rose
đương nhiên tôi không hề biết, cũng không ai biết,
Aristote đã viết điều gì trong tập sách thất lạc của
bộ Poetics, cái tập sách kinh điển về kịch nghệ
ấy. Nhưng bằng cách nào đó, trong quá trình viết cuốn
tiểu thuyết, tôi đã phát hiện ra. Số 2: tiểu thuyết
trinh thám đặt ra câu hỏi chủ chốt của triết học –
ai đã làm điều đó?” Khi ông nhận ra người tiếp
chuyện có vẻ đủ thông minh, ông nhanh chóng ban tặng
thêm những nhận xét hàn lâm: “Phải, đúng thế. Nhưng
tôi cũng muốn bổ sung là…”
Sau hai tiếng đầu của buổi phỏng vấn,
Mario Andreose, chủ nhiệm mảng văn học của Bompiani, nhà
xuất bản tiếng Ý của Eco, đến nơi đưa chúng tôi đi
ăn tối. Renate Ramge, bà vợ bốn mươi nhăm tuổi của
ông, ngồi ở ghế cạnh Andreose, còn Eco và tôi ngồi ghế
sau. Eco, người chỉ vài phút trước còn sục sôi tinh
thần và nhiệt huyết, giờ có vẻ ủ rũ và xa cách.
Nhưng tâm trạng của ông sớm khá lên sau khi chúng tôi
bước vào nhà hàng và một đĩa bánh mì đã được đặt
ngay trước mặt. Ông liếc menu, lưỡng lự, rồi khi người
bồi bàn vừa đến, vội vã gọi một đĩa calzone và một
ly Scotch. “Ừ đúng, tôi không nên làm thế, không nên…”
Một độc giả tươi cười tiến lại gần, “Ông có
phải là Umberto Eco không ạ?” Ngài giáo sư nhíu một
lông mày, cười toét và bắt tay. Sau đó, ngay khi cuộc
nói chuyện được nối lại, Eco đã say sưa thao
giảng về Giáo hoàng Benedict XVI, sự sụp đổ của Đế
chế Ba Tư và bộ phim về JamesBond vừa mới ra mắt. “Cô
có biết là,” ông nói khi đang xắn miếng calzone, “tôi
đã xuất bản một nghiên cứu cấu trúc luận về nguyên
mẫu trong kịch bản của Ian Fleming không?”
Người
phỏng vấn (NPV)
Ông sinh
ra ở đâu?
ECO
Ở thành phố Alessandria. Nơi đó nổi tiếng
nhờ những chiếc mũ Borsalino.
NPV
Ông xuất
thân từ gia đình như thế nào?
ECO
Cha tôi là kế toán còn ông nội là thợ
sắp chữ. Cha tôi là con út trong mười ba
đứa con. Tôi là con trai cả của ông. Con trai tôi là con
cả của tôi. Đứa con đầu của nó là con trai. Vậy nên
nếu ai đó tình cờ phát hiện ra rằng dòng họ Eco là
con cháu của hoàng đế Byzantin, thì cháu trai tôi hẳn là
người kế vị !
Ông nội có một ảnh hưởng
quan trong lên cuộc đời tôi, dù tôi không thường xuyên
đến thăm ông, vì ông sống cách thành phố ba dặm và
ông mất khi tôi lên sáu. Ông luôn tò mò về cuộc sống
và đọc rất nhiều sách. Điều tuyệt vời là khi đã
nghỉ hưu, ông bắt đầu đóng sách ở nhà. Vậy nên lúc
nào ông cũng có các quyển sách chờ đóng nằm rải rác
khắp nơi – những cuốn tiểu thuyết có hình minh họa,
cũ kỹ và đẹp đẽ của Gautier hoặc Dumas. Đó là những
cuốn sách đầu tiên tôi nhìn thấy. Khi ông mất vào năm
1938, nhiều người chủ của những quyển sách chưa đóng
đó không liên lạc để lấy lại chúng, nên gia đình tôi
quyết định chuyển hết chúng vào một chiếc hộp lớn.
Sau đó tình cơ, cái hộp lại được đặt ở tầng gác
ngôi nhà của bố mẹ tôi. Thỉnh thoảng tôi được sai
lên đó để lấy ít than củi hoặc một chai rượu, rồi
một ngày tôi mở chiếc hộp ấy ra và tìm thấy một kho
tàng sách truyện. Từ tôi chăm lên tầng gác hơn và khám
phá ra ông nội tôi cũng sưu tầm một tờ tạp chí nổi
tiếng, Giornale illustrato dei viaggi e delle avventure di terra
e di mare – bích báo về du lịch và phiêu lưu trên đất
liền và trên biển – dành cho các câu chuyện kỳ lạ và
đáng sợ diễn ra ở những vùng đất xa xôi. Đó là
chuyến xâm nhập đầu tiên của tôi vào xứ sở của
những câu chuyện. Thật không may là tôi đã đánh mất
tất cả số sách và tạp chí đó, nhưng sau vài thập kỷ,
tôi đã dần thu thập lại được chúng từ các hàng sách
và chợ đồ cũ.
NPV
Nếu như
ông chưa từng nhìn thấy cuốn sách nào trước khi đến
thăm ông nội mình, tức là bố mẹ ông không hề có
sách ?
ECO
Kể
cũng lạ, hồi còn trẻ, cha tôi rất ham đọc. Nhưng
vì ông bà tôi có đến mười ba đứa con, nên gia đình
kiếm sống chật vật và cha tôi không có tiền để mua
sách. Vậy nên ông ấy đến các cửa hàng sách và đứng
đọc ngay trên trên vỉa hè. Khi nào chủ cửa hàng thấy
phát cáu vì thấy ông ấy cứ loanh quẩn xung quanh, cha tôi
bèn đến cửa hàng tiếp theo và đọc phần còn lại của
cuốn sách ở đó, cứ như vậy. Đó là hình anh mà tôi
rất trân trọng. Đứa trẻ nhằng nhẵng theo đuổi những
cuốn sách. Khi đã trưởng thành, cha tôi chỉ được rảnh
rỗi vào buổi tối và lúc đó ông thường đọc báo và
tạp chí. Trong nhà chúng tôi chỉ có một ít tiểu thuyết,
nhưng chúng không nằm trên giá sách mà nằm trong tủ quần
áo. Thỉnh thoảng tôi thấy cha đọc tiểu thuyết mượn
được từ bạn bè ông.
NPV
Ông
ấy
nghĩ gì khi ông trở thành một học giả khi còn trẻ tuổi
như vậy?
ECO
Ồ,
ông ấy qua đời khá sớm, năm 1962, nhưng trước đó tôi
cũng đã kịp xuất bản một vài cuốn sách. Một số
nghiên cứu thôi, và hẳn là chúng đã khiến cha tôi bối
rối đôi chút, nhưng rồi tôi phát hiện ra là vào những
lúc tối muộn, ông ấy đã cố gắng đọc chúng. The Open
Work được xuất bản chính xác ba tháng trước khi ông
mất và được nhà thơ vĩ đại Eugenio Montale viết bài
điểm sách trên tờ Corriere della Sera. Đó là một bài
điểm sách rất lạ lùng – đầy hiếu kì, thân thiện
và cũng thô tục nữa – nhưng được viết bởi Montale,
và vì thế, tôi cho rằng, với cha tôi thật khó mà có
thể hình dung ra điều gì tuyệt vời hơn thế nữa. Theo
một cách nào đó, tôi đã trả được món nợ của mình,
và cuối cùng thì, tôi cảm thấy mình đã thỏa mãn được
những trông đợi của ông, dù rằng tôi nghĩ ông có lẽ
thấy vui thích hơn nếu được đọc các tiểu thuyết của
tôi. Mẹ tôi sống thêm mười năm sau đó, nên bà ấy
biết là tôi đã viết thêm nhiều cuốn khác, và tôi được
mời đến đọc sách ở các trường đại học ngoại
quốc. Bà ấy ốm rất nặng, nhưng hạnh phúc, dù tôi
không nghĩ là bà đủ minh mẫn để hiểu điều gì đang
xảy ra. Và cô biết đấy, một người mẹ luôn tự hào
về con trai mình, dù cho đứa con đó hoàn toàn ngu ngốc.
NPV
Ông
là một
đứa trẻ khi chủ nghĩa Phát xít lên ngôi ở Ý và chiến
tranh bùng nổ. Ông đã ý thức về điều đó như thế
nào?
ECO
Đó
là một quãng thời gian kỳ lạ. Musslini là một nhân vật
đầy lôi cuốn, và như mọi đứa học trò người Ý vào
thời điểm đó, tôi gia nhập phong trào Phát xít của
thanh thiếu niên. Tất cả chúng tôi bị bắt mặc đồng
phục theo kiểu quân đội và tham dự các buổi biểu
dương lực lượng vào mỗi chủ nhật - chúng tôi cảm
thấy hạnh phúc vì điều đó. Cũng tương tự như việc
ngày nay người ta cho một chú bé người Mỹ ăn mặc kiểu
lính thủy – và chú ta hẳn sẽ thấy vui thích. Đối với
những đứa trẻ chúng tôi, phong trào đó là cái gì đó
hoàn toàn tự nhiên, như tuyết vào mùa đông hay cái nóng
mùa hè. Chúng tôi không thể hình dung ra một cách sống
nào khác. Tôi nhớ về thời kỳ đó với một tình cảm
dịu dàng y như bất cứ ai nhớ về tuổi thơ của họ.
Tôi thậm chí còn nhớ các cuộc đánh bom, những đêm
trong hầm trú ẩn, một cách trìu mến như thế. Khi tất
cả chấm dứt vào năm 1943, cùng với sự sụp đổ lần
đầu của chủ nghĩa Phát xít, tôi mới phát hiện ra sự
tồn tại của những đảng phái chính trị khác, những
các nhìn nhận khác qua báo chí dân chủ. Để tránh những
đợt đánh bom từ tháng Chín năm 1943 đến tháng Tư năm
1945 – giai đoạn đau thương nhất trong lịch sử của
đất nước – mẹ tôi đã đưa chị gái và tôi đến
sống ở vùng ngoại ô, lên phía Monferraton, ở một ngôi
làng nói tiếng Piedmonte và cũng là nơi tập trung của lực
lượng kháng chiến thời ấy.
NPV
Ông
đã chứng
kiến trận đánh nào chưa?
ECO
Tôi
nhớ
đã từng nhìn thấy những cuộc đấu súng giữa
phe Phát xít và quân Du kích, gần như tôi đã muốn tham
gia vào trận đánh. Đến mức mà tôi xông lên, tránh được
một viên đạn nhắm vào mình rồi tìm cách nhảy vào
chiến trường. Và rồi, từ ngôi làng mà chúng tôi sống,
tôi còn nhớ mình có thể nhìn thấy hầu như hàng tuần
chúng đánh bom Alessandria, nơi cha tôi đang làm việc. Bầu
trời vỡ ra như một trái cam. Vì đường dây điện thoại
không hoạt động, nên chúng tôi phải đợi đến cuối
tuần, khi cha trở về nhà để biết ông còn sống hay đã
chết.Trong suốt thời gian đó, sống ở vùng nông thôn,
một chàng trai trẻ phải tự học cách để sống sót.
NPV
Chiến
tranh có ảnh hưởng gì đến quyết định cầm bút của
ông không?
ECO
Không,
không có mối
liên hệ trực tiếp nào cả. Tôi đã bắt đầu viết
trước khi chiến tranh xảy ra, hoàn toàn độc lập khỏi
nó. Thời niên thiếu tôi đã viết các cuốn truyện
tranh, vì tôi đọc rất nhiều thể loại đó, cùng với
các tiểu thuyết huyễn tưởng, về chuyện xảy ra ở
Malaysia và Trung Á. Tôi là người theo chủ nghĩa hoàn hảo
và tôi muốn chúng phải được tạo ra như cách chúng sẽ
được in, nên tôi cầu kỳ viết các chữ in hoa và vẽ
tít, tạo mục lục, vẽ các tranh minh họa. Công việc ấy
tỉ mẩn quá nên rốt cuộc tôi chưa bao giờ hoàn thiện
được cuốn nào. Khi đó, tôi là một nhà văn vĩ đại
của những tuyệt tác dở dang. Dù hiển nhiên là, khi tôi
bắt đầu viết tiểu thuyết, những hồi ức về chiến
tranh đã giữ một vai trò nhất định. Nhưng ai cũng vậy
cả thôi, một người luôn bị ám ảnh bởi những ký ức
từ một thời tuổi trẻ.
NPV
Ông
đã từng
cho
ai xem những
quyển sách của thời kỳ đó chưa?
ECO
Có
thể
là cha mẹ tôi đã thấy những gì tôi làm khi đó, nhưng
tôi không nghĩ là tôi đã đưa cho bất cứ ai đọc chúng.
Đó là thú vui tội lỗi của mình tôi thôi.
NPV
Ông
đã từng
thử viết thơ vào thời kỳ đó. Trong một tiểu luận,
ông có viết: “thơ ca do tôi sáng tác được sinh ra và
có hình thức y như mụn trứng cá của tuổi dậy thì”
[my
poetry had the same functional origin and the same formal
configuration as teenage acne]
ECO
Tôi
nghĩ rằng
vào một độ tuổi nhất định nào đó, khoảng 15 hay 16,
thơ ca cũng giống như thủ dâm vậy. Nhưng
khi giai đoạn đó qua đi, nhà thơ giỏi sẽ đốt hết
những bài thơ thời trẻ, còn nhà thơ tồi thì sẽ đem
chúng đi xuất bản. Tôi may mắn là đã bỏ cuộc từ
sớm.
NPV
Ai
là người
đã động viên ông
trên con đường văn học?
ECO
Bà
ngoại
tôi, bà ấy là một độc giả đầy mê say. Bà chỉ học
đến lớp năm trường tiểu học, nhưng là thành viên của
thư viện thành phố, và mỗi tuần bà luôn mang về nhà
cho tôi hai hay ba quyển sách: tiểu thuyết ba xu [dime
novels] hoặc Balzac. Đối với bà ấy, không có sự khác biệt
nào, chúng đều hấp dẫn như nhau. Mặt khác, mẹ tôi đã
học để trở thành một thư ký đánh máy. Bà bắt đầu
học tiếng Pháp và tiếng Đức, và dù rằng khi còn trẻ
mẹ đọc rất nhiều, bà dần xao nhãng khi bắt đầu có
tuổi, chỉ còn đọc tiểu thuyết diễm tình và tạp chí
dành cho phụ nữ. Vậy nên tôi không đọc những gì bà
ấy đọc. Nhưng bà luôn nói chuyện đầy duyên dáng, với
một phong cách Ý vững vàng và viết thư hay đến nỗi
bạn bè của bà từng nhờ bà viết thư hộ cho họ. Bà
có một sự nhạy cảm đáng kể với ngôn ngữ, dù đã
rời trường học từ khi còn ít tuổi. Tôi nghĩ là tôi
đã được thừa hưởng đặc tính tuyệt vời ấy từ
bà, đó cũng chính là yếu tố đầu tiên tạo nên phong
cách của tôi.
NPV
Dựa
vào đâu để nói về yếu
tố tự truyện trong
tiểu thuyết của ông?
ECO
Đối
với tôi thì, theo một cách nào đó, mọi tiểu thuyết
đều có yếu tố tự truyện. Khi ta tưởng tượng ra một
nhân vật, ta gửi vào anh ta hay cô ta một phần ký ức
của bản thân mình. Ta đưa một phần của chính ta cho
nhân vật thứ nhất, một phần khác cho nhân vật thứ
hai. Cũng có thể hiểu là tôi không viết bất cứ cuốn
tự truyện nào, tự truyện của tôi là tất cả những
cuốn tiểu thuyết tôi đã viết, gộp lại với nhau. Đó
mới là điều cốt yếu.
NPV
Hẳn
là có những hình ảnh cụ thể mà ông đã đưa vào tác
phẩm của mình? Tôi đang nghĩ đến cảnh Belbo chơi kèm
trumpet ở nghĩa trang, trong cuốn Con lắc của Foucault
[Foucault’s
Pendulum].
ECO
Khung
cảnh
ấy hoàn toàn là trải nghiệm của cá nhân tôi. Tôi không
phải Belbo, nhưng điều đó đã xảy ra với tôi và nó
quan trọng đến nỗi ngay bây giờ đây tôi sẽ tiết lộ
một điều mà tôi chưa bao giờ nói ra trước đây. Ba
tháng trước, tôi đã mua một cái trumpet xịn có giá đến
hai nghìn dollars. Để chơi được trumpet, cô biết đấy,
người ta phải rèn luyện khẩu độ (của đôi môi) một
thời gian dài. Hồi mười hai, mười ba tuổi, tôi chơi
khá cừ, nhưng giờ rồi tôi đánh mất còn kỹ năng đó
và giờ thì chơi rất tồi. Nhưng dẫu vậy, tôi vẫn chơi
trumpet hàng ngày, vì tôi muốn trở lại tuổi thơ. Nhờ
vào cây trumpet mà tôi biết được mình là ai khi còn trẻ.
Tôi không có cảm giác gì với đàn violon, nhưng mỗi khi
tôi nhìn vào cây trumpet, tôi luôn cảm thấy một dòng
nhiệt huyết tuôn chảy bên trong mình.
NPV
Ông
có tìm lại
được cảm giác khi chơi những giai điệu ngày đó không?
ECO
Càng
chơi,
những hồi tưởng về giai điệu lại càng trở nên sống
động.
Đương nhiên có những đoạn nhạc quá cao, quá khó. Tôi
cố gắng tập đi tập lại vài lần, nhưng tôi biết rằng
khẩu độ của mình không đúng.
NPV
Điều
tương tự có xảy ra với ký ức của ông không?
ECO
Điều
lạ lùng
ở đây là: càng già tôi càng nhớ ra được nhiều
chuyện. Tôi lấy một ví dụ nhé: thổ ngữ ở nơi tôi
lớn lên là Allessandrion, một tập hợp hỗn tạp từ
nhiều ngôn ngữ lân cận [lược
dịch: a
bastard Piedmontese with elements of Lombard, Emilian, and Genovese].
Tôi không nói thứ
tiếng này, vì tôi lớn lên trong một gia đình tiểu
tư sản, và cha tôi cho rằng chị em chúng tôi chỉ nên
nói tiếng Ý mà thôi. Tuy vậy, bố mẹ tôi vẫn hay nói
tiếng địa phương với nhau. Thành ra tôi nghe hiểu rất
tốt nhưng lại không thể nói được. Nửa thế kỷ sau,
một cách đầy bất ngờ, từ một ngóc ngách nào đó của
cơ thể tôi, hay từ trong vô thức, ngôn ngữ ấy dần
hình thành, rồi khi gặp lại một người bạn cũ từ
Alessandria, tôi lại có thể nói được lưu loát! Vậy nên
dần dà tôi nhận ra rằng thời gian trôi đi, tôi không
chỉ tìm lại được những gì tôi đã quên, mà còn có
thêm được những điều mà tôi tin là mình chưa bao giờ
học trước đây.
NPV
Lý
do gì khiến
ông quyết định nghiên cứu Mỹ học thời Trung cổ
[medieval
aesthetics]?
ECO
Tôi
được
giáo dục theo lối
Công
giáo và trong
suốt những năm đại học, tôi đã điều hành một trong
những hiệp hội của sinh viên Công giáo toàn quốc. Vậy
nên tôi bị thu hút bởi tư duy của các nhà hiền triết
thời Trung Cổ, cũng như Thần học về Thiên Chúa
[Christian
theology].
Tôi
bắt
tay làm luận án về mỹ học theo quan điểm của thánh
Thomas Aquinas, nhưng ngay trước khi hoàn thành, đức tin của
tôi đã bị tổn hại. Đó là một bê bố chính trí phức
tạp. Tôi ủng hộ đường lối tiến bộ của hiệp hội
sinh viên, nghĩa là tôi quan tâm đến các vấn đề xã
hội, quyền bình đẳng. Nhưng phe cánh hữu bảo thủ được
Giáo Hoàng Pius XII bảo hộ. Một ngày phe của tôi bị kết
tội dị giáo và ăn theo chủ nghĩa cộng sản. Ngay cả tờ
báo chính thức của Vatican cũng công kích chúng tôi. Sự
kiến đó đã khiến tôi phải nhìn nhận lại đức tin
của mình. Nhưng rồi tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu thời
Trung Cổ và triết học Trung Cổ với lòng kính trọng sâu
sắc, đó là chưa kể đến Thánh Aquinas yêu dấu của
tôi.
NPV
Ở
phần tái
bút trong Tên của Đóa Hồng, ông viết “Tôi nhìn thấy
thời kỳ này ở mọi nơi, phủ lên mọi quan tâm của tôi
đối với đời sống thường ngày, ngay cả khi bề ngoài
của sự vật không có vẻ gì là Trung Cổ, thì chúng vẫn
thuộc về thời kỳ ấy.”
ECO
Trong
suốt
cuộc đời mình, tôi đã có vô số trải nghiệm về sự
hiện diện trọn vẹn của thời Trung Cổ ở thời hiện
tại. Ví dụ khi đang làm luận án, tôi có đến Paris hai
lần, mỗi lần kéo dài nhiều tháng để tra cứu tài liệu
trong Bibliothèque
Nationale (Thư
viện Quốc gia Pháp). Tôi đã quyết định sẽ sống trọn
vẹn hai tháng trong thời kỳ Trung Cổ. Nếu như ta rút gọn
tấm bản đồ Paris, chỉ chọn ra vài con phố, đều đó
là hoàn toàn có thể. Và ta sẽ bắt đầu suy nghĩ và cảm
nhận y như một người đàn ông sống vào thời đó. Một
ví dụ khác: vợ tôi – cũng là một người làm vườn
tuyệt hảo và biết tên của mọi thứ hoa cỏ trên đời,
trước khi tôi viết cuốn Tên của Đóa Hồng, đã thường
chê trách tôi không chịu nhìn ngắm thiên nhiên. Có một
lần, chúng tôi về vùng quê, khi đốt lửa trại, bà ấy
nói: Hãy nhìn những đốm tro hồng bay lên ngọn cây kìa.
Đương nhiên là tôi không hề đếm xỉa đến. Sau này,
khi đọc chương cuối trong Tên của Đóa Hồng, đoạn mà
tôi miêu tả đốm lửa y như vậy, bà ấy nói: Nhưng mà
ông đâu có nhìn vào những đốm tro ấy đâu! Tôi bèn
nói: Tôi không nhìn, nhưng mà tôi biết một thầy tu thời
Trung Cổ sẽ cảm thấy thế nào khi nhìn vào đó.
NPV
Ông
có nghĩ là mình thực
sự vui thích cuộc sống thời Trung Cổ không?
ECO
Ồ
nếu mà tôi thực sự cảm thấy như thế, ở tuổi này,
thì chắc là tôi đã chết rồi. Tôi ngờ rằng nếu tôi
thực sự sống trong thời Trung Cổ, cảm giác của tôi về
thời kỳ đó hẳn sẽ phải khác lắm. Thay vào đó, tôi
chỉ tưởng tượng ra thôi.
NPV
Với
một người không có hiểu biết trong lĩnh vực này
(layman
có
thể hiểu theo nghĩa người bình thường hay người không
thuộc giới tăng lữ), thời kỳ Trung Cổ mang một sắc
thái kỳ bí và hoàn toàn xa lạ. Vậy điều gì đã lôi
cuốn ông?
ECO
Cũng
khó nói lắm.
Tại sao chúng ta yêu? Nếu buộc phải giải thích, tôi sẽ
nói nguyên nhân là ở chỗ thời kỳ đó hoàn toàn đối
lập với những gì người ta thường nghĩ về nó. Đối
với tôi, đó không phải “đêm trường Trung Cổ” [the
Dark Ages].
Đó là một giai đoạn rực rỡ, là mảnh đất màu mỡ
đã nuôi dưỡng thời kỳ Phục Hưng sau này. Một thời
kỳ đầy những giao đoạn hỗn độn và thất thường đã
đánh dấu sự ra đời của đô thị hiện đại, của hệ
thống ngân hàng, của trường Đại học, của ý niệm
của chúng ta về một Châu Âu, mà gán liền với đó là
các đặc trưng ngôn ngữ, quốc gia và văn hóa.
NPV
Ông
vừa
nói rằng trong các tác phẩm của mình, ông không bao giờ
thiết lập những liên
hệ nhận thức song
song giữa
thời Trung Cổ và thời Hiện đại [you
never make conscious parallels between the Middle Ages and modern
times], nhưng
dường
như chính điều đó lại góp phần tạo nên sức hấp dẫn
của thời kỳ đó đối với ông.
ECO
Đúng
vậy,
nhưng ta cần phải rất cẩn thận với những mối liên
hệ tương đồng. Trước đây tôi từng viết một tiểu
luận về những điều tồn tại ở thời Trung Cổ vẫn
đang hiện hữu trong thời đại chúng ta. Nhưng nếu như
cô đưa tôi năm mươi dollars, tôi cũng sẽ viết cho cô
một tiểu luận về những gì trùng lặp giữa thời đại
chúng ta với thời kỳ của người Neanderthals[1].
Rất
dễ để tìm ra
những
điểm trùng
lặp. Tuy vậy tôi vẫn nghĩ rằng quan tâm đến lịch sử
chính là tìm ra những liên hệ thực sự sâu sắc với
hiện tại này. Thú thực là tôi quá lỗi thời mất rồi,
nhưng tôi vẫn tin , như Cicero đã tin, rằng historia
magistra vitae,
chúng ta hiểu
được cuộc sống này là nhờ vào lịch sử.
NPV
Tại
sao một học giả trẻ như ông khi đó lại đột ngột
chuyển hướng sang nghiên cứu ngôn ngữ?
ECO
Từ
khi bắt đầu có nhận thức, tôi đã luôn cảm thấy hứng
thú với việc giao tiếp. Từ khía cạnh Mỹ học,
câu hỏi sẽ là: Thế nào là một tác phẩm nghệ thuật,
và một tác phẩm nghệ thuật giao tiếp với chúng ta như
thế nào? Tôi đã thực sự bị lối cuốn bởi câu hỏi
“thế nào”. Thêm nữa, chúng ta được coi là con người
bởi lẽ chúng ta có khả năng tạo ra ngôn ngữ. Thành ra,
ngay sau khi hoàn thành luận án, tôi đã bắt đầu làm
việc cho đài truyền hình của chính phủ Ý. Đó là vào
năm 1954, chỉ một vài tháng sau khi những chương trình
truyền hình đầu tiên được phát sóng, cũng là mốc
đánh dấu sự ra đời của thời đại truyền thông đại
chúng bằng thị giác [the
era of mass visual communication]
ở
Ý. Tôi bèn tự hỏi mình có phải là một dạng đa-nhân
cách quái dị nào đó. Một mặt, tôi hào hứng với những
chức năng tiên tiến nhất của ngôn ngữ trong các thử
nghiệm văn chương và nghệ thuật kiểu mới. Mặt khác,
tôi vui sướng gặm nhấm ti-vi, truyện tranh và các tiểu
thuyết trinh thám. Một cách tự nhiên, tôi tự hỏi bản
thân mình: Làm sao những mối quan tâm của tôi có thể
khác nhau đến như thế?
Tôi
chuyển
sang nghiên cứu ký hiệu học [semiotics]
vì tôi muốn hiểu được văn hóa ở những mức độ
khác nhau. Và
tôi đã đi đủ xa để hiểu rằng bất cứ thứ gì được
tạo ra bởi truyền thông đại chúng đều có thể trở
thành một đối tượng để phân tích dưới góc nhìn văn
hóa[2]
NPV
Ông
từng
nói rằng ký hiệu học là lý thuyết nghiên cứu sự dối
trá.
ECO
Thay
vì “dối
trá”, đáng lẽ tôi nên nói là “kể điều phản-sự
thật” Con người có thể kể truyện cổ tích, tưởng
tượng ra những thế giới mới, hay mắc sai lầm - và
chúng ta cũng có thể nói dối. Ngôn ngữ cho phép tất cả
những khả năng đó.
Nói
dối
là một khả năng đặc biệt chỉ con người mới có
được. Một con chó lần theo một dấu vết, theo dấu một
mùi hương. Cả con chó lẫn mùi hương đều không “nói
dối”, có thể nói như vậy. Nhưng tôi có thể nói dối
cô và chỉ cho cô đi sai đường, vậy mà cô lại tin tôi
và đi theo lối sai ấy. Lý do cho khả năng này là bởi vì
chúng ta nhận thức dựa vào các dấu hiệu.
NPV
Một
vài người phản đối việc coi ký hiệu học là một
lĩnh vực nghiên cứu cho rằng rốt cuộc, những ai nghiên
cứu chuyên ngành này sẽ khẳng định mọi thực tế đều
không có thật.
ECO
Đó
là quan điểm
của những người ủng hộ phương páp giải kiến tạo
[deconstructionists[3]].
Họ
không chỉ cho rằng tất cả mọi thứ đều là văn bản
(text),
ngay cả cái bàn này đây, và mọi văn bản đều có thể
diễn giải đến vô tận – nhưng đây cũng là một ý
tưởng bắt nguồn từ Nietzche, người nói rằng không hề
có sự thật mà tất cả chỉ là những lời diễn giải.
Ngược lại, tôi ủng hộ quan điểm của Charles Sanders
Pierce, người chắc chắn là triết gia Mỹ vĩ đại nhất,
đồng thời là cha để của ký hiệu học và diễn giải
luận [the
theory of interpretation].
Ông ấy
cho rằng, thông qua các ký hiệu mà ta diễn giải được
sự việc. Và nếu như không có sự việc và chỉ có
những diễn giải, thì liệu có còn gì để mà diễn
giải? Đó chính là điều tôi muốn bàn luận trong The
Limits of Interpretation
(tạm dịch: Giới
hạn của Diễn giải).
NPV
Trong
Foucault’s Pendulum, ông viết
“Một biểu tượng càng mơ hồ và khó khó nắm bắt bao
nhiêu thì nó càng có giàu ý nghĩa và sức mạnh bấy
nhiêu”.
ECO
Một
bí mật thực sự lôi cuốn khi nó không ẩn giấu bất cứ
điều gì cả. Như là “Masonic
secret[4]” mà
người ta thường nói đến. Cái gì gọi là “Masonic
secret”? Không ai có thể
nói chắc được. Nhưng điều chắc chắn là, chừng nào
còn trống rỗng, nó càng rộng mở với mọi loại ý
niệm, và vì vậy mà nó có được sức mạnh nhất định.
NPV
Ông
muốn
nói rằng công việc nghiên cứu ký hiệu học của ông là
hoàn toàn tách biệt với công việc của một tiểu thuyết
gia?
ECO
Nghe
có vẻ
khó tin, nhưng tôi chưa từng nghĩ đến kí hiệu học
trong khi viết tiểu thuyết. Phần việc đó tôi để cho
những người khác tiếp nối. Và tôi luôn luôn ngạc
nhiên với những kết quả mà họ đạt được.
NPV
Ông
có bị
ám ảnh bởi truyền hình không?
ECO
Tôi
ngờ
rằng không có học giả nghiêm túc nào lại không thích
xem truyền hình. Tôi chỉ đơn giản là một trong những
người đã thú nhận. Và tôi đã cố sử dụng nó như
một nguyên liệu cho công việc của mình. Nhưng tôi không
phải là một kẻ tham lam cố gắng vơ vét mọi thứ trên
đời. Không phải thể loại truyền hình nào tôi cũng
thích. Tôi thích các series phim tình cảm, tâm lý và ghét
các loại show truyền hình nhảm nhí.
NPV
Có
chương
trình nào mà ông đặc biệt ưa thích không?
ECO
Các
series
phim cảnh sát. Ví dụ như Starsky
and Hutch.
NPV
Serie
đó giờ
không chiếu nữa rồi. Nó có từ những năm bảy mươi.
ECO
Tôi
biết,
nhưng tôi nghe nói là DVD trọn bộ vừa mới được phát
hành, nên tôi nghĩ sẽ đi mua đĩa về xem thôi. Ngoài
ra tôi cũng thích CSI,
Miami Vice, ER, và
hơn
hết là
Columbo.
NPV
Ông
đã đọc
Mật mã Da Vinci chưa?
ECO
Rồi,
tôi cũng thú tội đó luôn.
NPV
Cuốn
tiểu thuyết đó có vẻ như là một ngoại truyện khá kỳ
cục của Foucault’s
Pendulum.
ECO
Tác
giả
của cuốn đó, Dan Brown ấy, là một nhân vật trong
Foucault’s
Pendulum!
Tôi
sáng
tạo
ra anh ta. Anh ta có cùng niềm say mê với các nhân vật của
tôi – thế giới đầy âm mưu với Hội Chữ thập Rosy,
Hội Tam Điểm và các tu sĩ dòng Tên (Jesuits).
Vai trò của các hiệp sĩ dòng Đền (Knights
Templar).
Bí mật
của thuật luyện kim. Hay niềm tin rằng tất cả mọi thứ
đều được kết nối với nhau. Tôi ngờ rằng Dan Brown
thậm chí còn không tồn tại.
NPV
Dường
như ý
tưởng
đưa một tiền đề hư cấu
có
vai trò rất rõ nét trong nhiều tiểu thuyết của ông. Như
vậy, bằng cách này hay cách khác, hư cấu dựng lên sự
thật.
ECO
Đúng
vậy,
chuyện bịa có thể thay đổi thực tế. Đó chính là
điều tôi muốn nói trong tiểu thuyết thứ tư: Baudolino.
Baudolino là một kẻ hay tán phét, sống trong triều đình
của Frederick Barbarossa, Hoàng đế của La Mã Thần Thánh.
Cậu ta bịa ra vô số chuyện trên đời: từ truyền
thuyết về Chén Thánh cho đến chuyện Barbarossa được
thừa nhận là Hoàng đế ở xứ Bologna, từ đó mà gây
ra biết bao nhiêu tai họa chết người. Những câu chuyện
sai lệch có thể dẫn đến những sự kiện lịch sử
thực sự. Ví dụ như lá thư của Prester John: cái đó
hoàn toàn là giả, và trong tiểu thuyết của tôi chính
Baudolino, chứ không phải ai khác, là người đã bịa ra.
Thế nhưng chính nó lại thúc đẩy những cuộc viễn
chinh đến châu Á thời bấy giờ, đơn giản là vì nó vẽ
ra một vương quốc Thiên Chúa giáo đang phồn vinh ở đâu
đó trong lòng phương Đông bí hiểm. Hay là Christopher
Columbus. Ý niệm của ông ấy về thế giới hoàn toàn sai
lầm. Như tất cả mọi người thời Trung Cổ - bao
gồm cả những kẻ đối địch với mình, ông tin rằng
trái đất có hình cầu. Nhưng ông cho rằng nó nhỏ hơn
so với tưởng tượng. Vậy là nhờ tư tưởng sai lầm đó
dẫn lối, ông đã tìm ra ra châu Mỹ. Một ví dụ nổi
tiếng khác là Protocols
of the Elders of Zion[5].
Cái lý thuyết
đó là lừa đảo, nhưng nó đã trở thành điểm tựa cho
hệ tư tưởng của Đức Quốc Xã, và đã mở đường
cho cuộc Diệt Chủng, bởi vì Hitler đã lấy đó làm cái
cứ để tận diệt người Do Thái. Có thể ông ta biết
đó là nó là giả, nhưng nó lại phù hợp với hình ảnh
của người Do Thái mà ông ta muốn dựng nên, vậy là ông
ta quyết tâm coi đó là sự thật.
NPV
Ở
đoạn kết, Baudolino tuyên bố rằng: The
kingdom of the Priest (tạm
dịch: Nước thầy Tế lễ) là có thật vì tôi và các
bạn đồng hành đã dành hai phần ba cuộc đời để tìm
cho được nơi ấy.
ECO
Baudolino
giả
mạo tài liệu, dựng nên các xã hội không tưởng, dàn
dựng những viễn tưởng vô căn cứ. Câu
chuyện bịa đặt hóa thành thật khi những người bạn
của anh ta hồ hởi lao vào chuyến phiêu lưu thực sự đến
phương Đông huyền bí. Nhưng đó mới chỉ là một phương
diện của kỹ thuật kể chuyện. Ở góc nhìn khác, ta có
thể sử dụng những sự có thật, nhưng trong khuôn khổ
của một cuốn tiểu thuyết, lại khó tin đến mức biến
thành chuyện hoàn toàn hư cấu. Trong các tiểu thuyết của
mình, tôi đã đưa vào vô số những câu chuyện và tình
tiết có thật, bởi vì tôi thấy chúng quá lãng mạn, đôi
khi đầy chất tiểu thuyết, hơn hẳn bất cứ thứ chuyện
hư cấu nào tôi từng được đọc. Ví dụ như trong The
Island of the Day Before,
có đoạn
Father Caspar tạo ra một thứ thiết bị kỳ dị để quan
sát các vệ tinh của sao Mộc, nhưng cuối cùng đó lại
là một trò hề không hơn không kém. Thiết bị từng này
được miêu tả trong những lá thư của Galileo. Tôi chỉ
tự hỏi điều gì có thể xảy ra nếu như nó đã từng
tồn tại? Thế nhưng độc giả của tôi lại cho rằng
tất cả chỉ là bịa chuyện gây cười mà thôi.
NPV
Điều
gì đã thôi thúc ông viết tiểu thuyết dựa trên những
sự kiện lịch sử?
ECO
Đối
với tôi, tiểu thuyết lịch sử không hẳn là một phiên
bản hưu cấu của những sự kiện có thật, mà là một
câu chuyện có khả năng giúp chúng ta hiểu hơn về sự
thật lịch sử. Tôi cũng thích đưa vào tiểu thuyết lịch
sử những yếu tố của một bildungsroman.
Trong tất
cả các tiểu thuyết mà tôi đã viết, luôn có một nhân
vật trẻ tuổi trưởng thành dần qua các bài học và
những trải nghiệm không mấy dễ dàng.
NPV
Tại
sao ông lại bắt đầu viết tiểu thuyết ở tuổi bốn
mươi tám?
ECO
Đó
không hẳn
là một quyết định bất thường như mọi người vẫn
nghĩ, vì ngay cả trong luận án tiến sĩ hay các luận
thuyết của mình, tôi vẫn luôn nuôi dưỡng những mạch
kể chuyện. Sau một thời gian dài ngẫm nghĩ, tôi cho rằng
bản chất bên trong của hầu hết những cuốn sách triết
học vẫn là kể câu chuyện về cách mỗi lập luận được
hình thành như thế nào, cũng giống như cách các nhà khoa
học giải thích cho chúng ta con đường nào đã dẫn họ
đến với những phát kiến quan trọng. Tôi nhận thấy
rằng mình vẫn luôn kể chuyện, chỉ là giờ đây có một
sự thay đổi nhỏ về phong cách mà thôi.
NPV
Nhưng
điều gì đã làm cho ông cảm thấy là mình phải viết
một cuốn tiểu thuyết?
ECO
Một
ngày nọ vào năm 1978, một người bạn nói với tôi rằng
cô ấy muốn xuất bản một chuỗi các tiểu thuyết trinh
thám ngắn được viết bởi những tác giả nghiệp dư.
Tôi bèn trả lời rằng không đời nào tôi lại viết
được truyện tinh thám, nhưng nếu như tôi có thể, đó
sẽ phải là một cuốn sách dày năm trăm trang với các
nhân vật là thầy tu thời Trung Cổ. Ngày hôm đó, khi trở
về nhà, tôi bắt đầu lên một danh sách những nhân vật
hư cấu trong giới tăng lữ thời kỳ đó. Rồi bỗng
nhiên hình ảnh của một thầy tu bị đầu độc hiện
lên trong tâm trí tôi. Đó là khởi đầu của tất cả
mọi thứ, chỉ một hình ảnh đó thôi. Nó đã trở thành
một sự thôi thúc mãnh liệt.
NPV
Rất
nhiều tiểu thuyết của ông đựa xây dựng dựa trên
những ý niệm hàn lâm. Dường như đối với ông, tạo
nên cầu nối giữa nghiên cứu lý thuyết và viết tiểu
thuyết là một nhu cầu tự nhiên? Ông đã từng nói rằng:
“những gì không thể thu về lý thuyết được, thì ta
phải giải thích bằng truyện kể.”
ECO
Đó
là lời
diễu nhại ám chỉ một câu nói của Wittgenstein. Sự thật
là, tôi đã viết vô số tiểu luận về ký hiệu học,
nhưng tôi cho rằng những quan điểm của mình lại được
thể hiện rõ ràng trong Foucault’s
Pendulum hơn
là trong những tiểu luận đó. Ý tưởng nảy ra trong đầu
bạn có thể không hề độc đáo – Aristotle luôn nghĩ ra
điều đó trước bạn mất rồi. Nhưng bằng ấy trải ý
tưởng ấy vào trong một tiểu thuyết, bạn có thể khiến
nó trở nên độc đáo. Đàn ông yêu đàn bà. Đó không
phải là điều gì mới mẻ. Nhưng nếu bằng cách nào đó,
bạn có thể viết một tiểu thuyết kinh dị về chủ đề
đó, và rồi nhờ một sức mạnh đánh lạc hướng kỳ
diệu của văn học, câu chuyện trở nên cực kỳ độc
đáo. Tôi chỉ đơn thuần tin rằng, vào lúc cuối ngày,
một câu chuyện sẽ luôn phong phú hơn: đó là sẽ là một
ý tưởng đã được chuyển hóa thành một sự kiện,
thốt ra từ miệng một nhân vật, trong lớp vỏ óng ánh
của ngôn ngữ đã được chế tác tinh xảo. Bởi vậy,
theo một lẽ tự nhiên, khi một ý tưởng biến thành một
thực thể sống, nó trở nên cái gì đó hoàn toàn khác,
và dường như giàu ý nghĩa hơn gấp bội.
Mặt
khác, mâu thuẫn luôn có thể là trọng tâm của một tiểu
thuyết. Giết các bà cô già có thể rất thú vị, dù ý
tưởng đó sẽ khiến bạn bị đánh trượt trong một bài
kiểm tra đạo đức. Nhưng trong một tác phẩm như Tội
lỗi và Trừng phạt, một tuyệt tác văn xuôi trong đó
nhân vật chính không thể khẳng định giết mấy bà cô
già là tốt hay xấu, và chính khúc mắc đó của anh ta –
cái mâu thuẫn mà chúng ta đã nói đến – lại trở
thành một vấn đề đầy thách thức và nên thơ.
NPV
Ông
bắt
đầu tìm kiếm tài liệu cho tiểu thuyết như thế nào?
ECO
Với
Tên của Đóa Hồng, bởi vì tôi vốn ham thích thời Trung
Cổ, tôi có trong tay cả trăm tập tài liệu và chỉ mất
hai năm để hoàn thành cuôn sách. Còn thời gian để tìm
tòi và viết Foucault’s
Pendulum là
tám năm! Và vì tôi không nói cho ai biết
mình đang làm gì, nên giờ nghĩ lại tôi mới nhận ra
rằng mình đã khép mình trong thế giới riêng trong gần
một thập kỉ. Tôi bước ra ngoài phố, nhìn thấy một
chiếc ô tô ở đây, cái cây ở kia và nghĩ, Ồ, chúng có
thể liên quan đến câu chuyện mình đang viết đấy. Vậy
là câu chuyện của tôi được bồi đắp từng ngày, và
tất cả mọi thứ tôi làm, mỗi mảnh nhỏ của cuộc đời
xung quanh, mỗi cuộc hội thoại, đều đem đến cho tôi
một ý tưởng gì đó. Rồi tôi đến thăm những địa
danh có thật mà tôi quan tâm – những nơi ở Pháp và Bồ
Đào Nha từng có những tín đồ dòng Đền sinh sống.
Việc đó cũng giống như trong một video game, trong đó tôi
sắm vai một chiến binh dấn thân vào vương quốc ma
thuật. Nhưng thay vì bị kẹt cứng vào chuyến phiêu lưu
như trong một video game, thì với việc viết lách, có
những lúc bạn bị khủng hoảng đến mức phải bứt
mình khỏi mạch truyện, để lại cầm bút lên tiếp tục
cuộc hành trình vào ngày hôm sau.
NPV
Ông
có sắp
xếp câu chuyện theo trình tự không?
ECO
Ôi,
không hề.
Một ý tưởng nảy ra tức thì giữa ý tưởng khác. Một
quyển sách ngẫu nhiên khiến tôi lại muốn đọc một
quyển khác nữa. Và điều đó xảy ra ngay cả khi đang
đọc một tài liệu hoàn toàn vô dụng, tôi cũng đột
nhiên có được một ý tưởng phù hợp để đưa
câu chuyện tiến triển. Cũng như việc chèn thêm một
chiếc hộp nhỏ vào trong một tập hợp lớn hơn những
chiếc hộp đã được xếp lại với nhau.
NPV
Ông
từng
nói rằng khi viết một cuốn tiểu thuyết, đầu tiên ông
thường tạo ra một thế giới rồi để cho “thế
giới đó tự vận hành”. Ý ông là phong cách của một
tiểu thuyết được định hình bằng chính đối tượng
mà nó hướng tới?
ECO
Đúng
vậy,
đối với tôi điều quan trọng nhất là dựng nên một
thế giới: một tu viện với những thầy tu bị đầu
độc, một người đàn ông trẻ chơi trumpet giữa một
nghĩa trang, một kẻ khoác lác mắc kẹt trong cuộc vây
thành Constantinope. Tìm tòi nghĩa là đặt ra tất cả các
giới hạn cho những thế giới ấy: Cầu thang xoắn có
bao nhiêu bậc? Danh sách đồ giặt là có bao nhiêu món?
Một nhiệm vụ cần đến bao nhiêu chiến binh? Thế giới
sẽ được bao trọn bởi những giới hạn đó. Từ góc
độ văn chương, tôi cảm thấy rằng chúng ta thường mắc
phải sai lầm khi cho rằng phong cách chỉ gói gọn trong cú
pháp và từ vựng. Vì ngoài những yếu tố đó ra, còn có
cách thức kể chuyện, mà qua đó, những miếng ghép được
đặt cạnh nhau và tạo nên một tình huống. Ví dụ như
flashback (hồi ức). Flashback là một yếu tố tạo nên
phong cách, nhưng lại không hề liên quan đến ngôn từ.
Vậy nên phong cách phức tạp hơn nhiều so với việc
phóng chữ trên giấy. Đối với tôi, phong cách có vai trò
giống như là công việc dựng phim trong điện ảnh vậy.
NPV
Ông
đã làm thế
nào để giọng văn trở nên mượt mà?
ECO
Một
trang viết ra, tôi thường chữa đi chữa lại cả chục
lần. Đôi khi tôi thích đọc thành tiếng một đoạn văn
nào đó. Tôi cực kỳ nhạy cảm với từng sắc thái
trong tác phẩm của mình.
NPV
Vậy
cũng giống như Flaubert, viết ra được một câu văn hay
là một điều vô cùng khổ sở?
ECO
Không,
tôi không cảm
thấy khổ sở gì đâu. Tôi phải viết lại cùng một câu
văn vài ba lần, nhưng bây giờ, nhờ vào chiếc máy tính,
quá trình ấy đã có thay đổi. Tôi viết tay bản thảo
Tên của Đóa Hồng rối đưa thư ký đánh máy lại trên
máy chữ. Khi bạn viết đi viết lại một câu đến mười
lần, thật khó để mà chép lại nó nữa. Với máy tính
như hiện nay, rất dễ dàng để rà qua rà lại môt trang
mười đến hai mươi lượt một ngày, sửa chữa và viết
lại. Tôi tin rằng, về bản chất, chúng ta không bao giờ
hài lòng với việc mình đã làm. Nhưng giờ đây thì mọi
chuyện thật dễ dàng, có lẽ là quá dễ, để chỉnh sửa
mọi thứ. Có lẽ vì vậy mà giờ đây chúng ta lại có
những yêu cầu khắc khe hơn.
NPV
Bildungsroman
thường
được
xây dựng dựa trên những giai đoạn trưởng thành của
tình cảm và tính dục. Nhưng trong các tiểu thuyết của
mình, ông chỉ miêu tả có hai cảnh có yếu tố tình dục
– một trong Tên của Đóa Hồng và một trong Baudolino. Có
lý do gì cho điều đó không?
ECO
Tôi
nghĩ đơn
giản là tôi thích làm tình hơn là viết về chuyện đó.
NPV
Vậy
tại sao Adso lại trích dẫn Song
of Songs (Sách Diễm
ca) khi trong khi anh ta đang làm tình với cô gái nông dân
trong Tên của Đóa Hồng?
ECO
Đó
là một
thủ pháp gây cười, vì tôi không thực sự quan tâm đến
cảnh làm tình, mà điều tôi muốn miêu tả ở đây là
một thầy tu trẻ sẽ có trải nghiệm tình dục như thế
nào khi nó được nhìn nhận qua “phông” văn hóa của
anh ta. Vậy nên tôi chọn ra ít nhất năm mươi đoạn
trích từ các sách mặc khải, miêu tả trạng thái hân
hoan của con người khi nhận ra sự hiện diện của thánh
thần, cùng với đoạn trích từ Songs of Songs. Trong suốt
hai trang sách miêu tả cảnh làm tình đó, chỉ có vài từ
là của tôi. Adso chỉ có thể hiểu tình dục qua lăng
kính của văn hóa mà anh ta đã hấp thụ từ trước. Đó
là một ví dụ cho văn phong, như tôi đã định nghĩa (ở
trên).
NPV
Ông
thường
viết vào thời điểm nào trong ngày?
ECO
Không
có một
nguyên tắc cố định nào cả. Đối với tôi, lịch trình
là điều không thể. Đôi khi tôi bắt đầu viết lúc bảy
giờ sáng và kết thúc lúc ba giờ đêm, chỉ dừng lại
để ăn một ổ bánh mỳ. Đôi khi tôi lại không hề cảm
thấy mình cần phải viết.
NPV
Khi
đã viết,
ông thường viết được bao nhiêu mỗi ngày? Hay cũng
không có quy định nào?
ECO
Không
có quy định
nào hết. Nghe này, viết lách không nhất thiết phải có
nghĩa là rải chữ lên một tập giấy. Người ta có thể
viết một chương sách ngay trong khi đang đi dạo bộ hoặc
đang ăn.
NPV
Vậy
mỗi ngày đối với ông đều khác biệt?
ECO
Khi
tôi ở
ngôi nhà ở vùng quê, trên đỉnh đồi Montefeltro, thì tôi
cũng có một vài thói
quen. Bật máy tính, liếc qua chỗ emails, đọc vài thứ và
ngồi viết cho đến chiều. Sau đó tôi sẽ đi vào làng,
uống một ly ở quần bar và đọc tin tức. Rồi tôi trở
về nhà, xem ti-vi hoặc đĩa DVD cho đến mười một giờ
tối, rồi tôi làm việc thêm chút nữa đến hai giờ
sáng. Ở đó tôi có thông lệ như thế vì tôi không bị
làm phiền. Khi ở Milan hoặc ở trường đại học, tôi
không thể làm chủ thời gian của mình – luôn có ai đó
quyết định những gì tôi cần phải làm lúc này hay lúc
khác.
NPV
Khi
ngồi
xuống viết, ông có cảm thấy lo lắng gì không?
ECO
Tôi
không có nỗi
lo lắng nào hết.
NPV
Ông
không cảm
thấy lo lắng, vậy ông chỉ vô cùng phấn khích mà thôi?
ECO
Trước
khi ngồi xuống viết, tôi thật lòng cảm thấy hạnh
phúc.
NPV
Có
bí quyết
gì cho khả năng sáng tác dồi dào như thế? Ông đã viết
một số lượng vô cùng lớn các công trình nghiên cứu,
và năm cuốn tiểu thuyết của ông cũng không hề ngắng
chút nào.
ECO
Tôi
luôn nói rằng
tôi có khả năng tận dụng những kẽ hở. Có vô cùng
nhiều những khoảng trống giữa các nguyên tử với các
nguyên tử, giữa các electron với các electron, và nếu như
ta có thể thu gọn vật chất trong vũ trụ bằng cách loại
trừ những khoảng trống đó, cả vũ trụ có thể được
nén vào trong một quả bóng. Cuộc đời của chúng ta tràn
ngập những khoảng trống như thế. Buổi sáng hôm nay cô
đã nhấn chuông nhưng rồi cô phải đợi thang máy, và
phải mất một vài giây cô mới đến đứng trước cánh
cửa. Trong vài giây đó, trong lúc đợi cô, tôi đang nghĩ
về câu chuyện đang dang dở. Tôi có thể làm việc trong
nhà vệ sinh, hay trên tàu. Khi bơi tôi nghĩ ra rất nhiều
thứ, nhất là khi bơi ở biển. Trong bồn tắm thì ít
hơn, nhưng vẫn có.
NPV
Có
khi nào ông không làm việc
không?
ECO
Không,
điều
đó không xảy ra. À, mà cũng có đấy, là hai ngày hồi
tôi phải làm phẫu thuật
.
NPV
Thú
vui lớn
nhất của ông hiện tại là gì?
ECO
Đọc
tiểu thuyết ban đêm. Đôi khi tôi tự hỏi lẽ nào, như
một tín đồ Thiên Chúa thiếu lòng trung, lại có một
giọng nói du dương thì thầm vào tai tôi rằng tiểu
thuyết là quá dễ dãi để đọc vào ban ngày. Bởi
lẽ đó, ban ngày thường dành cho tiểu luận và những
việc cần nhiều công sức hơn.
NPV
Thế
còn các khoái lạc thì sao?
ECO
Tôi
có đi xưng
tội đâu cơ chứ! Nhưng OK thôi, là rượu Scotch. Thuốc
lá cũng là một lạc thú trước khi tôi từ bỏ cách đây
ba năm. Tôi có thể hút sáu điếu một ngày. Nhưng tôi là
người hút tẩu kiểu cũ nên tôi có thói quen xua khói ra
xa khi đang viết. Vậy nên tôi cũng không hít nhiều khói
vào lắm đâu.
NPV
Ông
từng
bị chỉ trích vì tính
hàm lâm được phô diễn trong các tác phẩm của mình.
Một nhà phê bình còn đi xa hơn khi nói rằng mục đích
của của tác phẩm là khiến cho một người đọc phổ
thông cảm thấy bản thân đáng thương hại vì sự ngu
dốt, thái độ đó sau này sẽ chuyển thành lòng ngưỡng
mộ ngây thơ đối với màn trình diễn của ông.
ECO
Tôi
có phải
kiểu ác dâm hay không? Tôi không biết. Hay là một kẻ
phô dâm (exhibitionist).
Có thể.
Nhưng tôi đang đùa thôi, đương nhiên là không rồi! Tôi
không làm việc nhiều đến thế trong cả đời mình chỉ
để khoe khoang kiến thức trước độc giả. Trên thực
tế, tri thức đóng vai trò trụ cột trong cấu trúc phức
tạp của các tiểu thuyết mà tôi đã viết. Sau đó,
chính độc giả mới là người quyết định họ có thể
tìm thấy điều gì.
NPV
Ông
có nghĩ rằng
thành công có tính đại chúng với tư cách là một tiểu
thuyết gia đã thay đổi suy nghĩ của ông về vai trò của
người đọc?
ECO
Sau
một
thời gian quá dài làm công việc nghiên cứu, bắt tay vào
viết tiểu thuyết cũng giống như một nhà phê bình sân
khấu bỗng dưng bước ra dưới ánh đèn và bị tất cả
những đồng nghiệp cũ – giới phê bình – nhìn chòng
chọc. Lúc mới đầu, tôi đã khá bối rối.
NPV
Nhưng
việc viết tiểu thuyết có thay đổi suy nghĩ của ông về
sự ảnh hưởng của mình đối với độc giả, trong vai
trò là một tác giả?
ECO
Tôi
luôn cho rằng
một cuốn sách hay thì thông minh hơn người viết ra nó.
Cuốn sách có thể nói những điều nằm ngoài ý định
của người viết.
NPV
Ông
có nghĩ rằng
địa vị của một tiểu thuyết gia lẫy lừng đã khiến
cho danh tiếng của ông, như một nhà tư tưởng nghiêm túc
ở tầm thế giới, bị suy giảm?
ECO
Từ
khi
xuất bản tiểu thuyết, tôi đã nhận được ba mươi lăm
tấm bằng danh dự từ khắp nơi trên thế giới. Với sự
thật này, tôi kết luận là câu trả lời cho câu hỏi
của cô sẽ là Không. Trong môi trường đại học, các
giáo sư cảm thấy hứng thú với sự giao động giữa
truyện kể và lý thuyết. Họ thường tìm thấy những
mối liên hệ giữa hai khía cạnh này hiện hữu trong công
việc của tôi, đôi khi chính tôi còn không tin rằng chúng
tồn tại. Nếu cô muốn, tôi sẽ cho cô xem cả một bức
tường kín đặc những nghiên cứu khoa học về tôi.
Bên
cạnh
đó, tôi vẫn tiếp tục đưa ra những tiểu luận về các
lý thuyết. Tôi tiếp tục sống như một giáo sư, người
viết tiểu thuyết vào mỗi cuối tuần, thay vì sống như
một nhà văn kiếm sống thêm bằng cách đi dạy ở trường
đại học. Tôi tham dự các chuyên đề khoa học nhiều
hơn là các “hội thảo viết lách”. Thực tế thì, ai
đó có thể nói điều ngược lại: có lẽ công việc hàn
lâm đã làm lu mờ danh tiếng nhà văn của tôi trên báo
chí đại chúng.
NPV
Nhà
thờ
Công Giáo đã từng làm khó ông. Tờ tin của Vatican đánh
giá Foucault’s
Pendulum là “đầy
rẫy sự báng bổ, lăng mạ, nhảm nhí, tục tĩu – tất
cả được phô bày cùng với thói ngạo mạn và những
lời lẽ xúc xiểm cay độc.”
ECO
Điều
lạ lùng là tôi mới được nhận bằng danh dự từ hai
trường đại học Công giáo, Leuven và Loyola.
NPV
Ông
có tin vào Chúa không?
ECO
Tại
sao ta lại phải lòng một người rồi ngay ngày hôm sau
tình yêu bỗng bỏ ta đi? Cảm xúc, than ôi, luôn biến mất
mà không một lời giải thích, và thường không để lại
một dấu vết nào.
NPV
Nếu
ông không tin vào Chúa, tại sao ông lại dành nhiều thời
gian viết về tôn giáo như vậy?
ECO
Bởi
vì tôi tin vào tôn giáo. Con người là một động vật có
tôn giáo, và đó là một đặc tính riêng của hành vi
loài người mà ta không thể lờ đi hay loại bỏ được.
NPV
Cùng
với nhà học giả và tiểu thuyết gia, có một nhân cách
thứ ba nữa trong ông – một dịch giả. Tác phẩm của
ông đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng, và ông
cũng đồng thời là một dịch giả đã viết rất nhiều
về những vấn đề của công việc chuyển ngữ.
[You
are a widely translated translator who has written at length on the
conundrums of translation]
ECO
Tôi
đã biên tập vô số các bản dịch, tự mình dịch hai
công trình, và có tiểu thuyết dịch sang cả chục thứ
tiếng. Và tôi nhận ra rằng mỗi bản dịch là một lần
đàm phán. Nếu cô bán cái gì đó cho tôi và tôi mua nó,
chúng ta đàm phán – cô sẽ mất cái gì đó, tôi cũng
mất cái gì đó, nhưng rốt cuộc trong chúng ta cũng sẽ
phải thỏa hiệp. Khi chuyển ngữ, văn phong không hơn gì
từ ngữ, đều có thể được dịch tự động trên trang
Altavista [Altavista, từng cung cấp công cụ dịch Babel Fish,
giờ đã thuộc sở hữu của Yahoo!], nhưng vẫn cần giai
điệu. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm
trên tác phẩm The Betrothed của Manzoni, một tuyệt tác của
văn học Ý thế kỷ mười chín. Manzoni có vốn tự vựng
cực kỳ nghèo nàn, không hề sử dụng những phép ẩn dụ
tân tiến, và lặp đi lặp lại một tính từ nhiều đến
phát khiếp [used
the adjective good a frightening amount of times],
nhưng văn phong của ông ấy thật xuất sắc, trong sáng và
giản dị. Để dịch được nó, cũng là quy chuẩn để
đánh giá mọi bản dịch khác, ta phải tìm cách làm nổi
bật được nội lực [anima] trong thế giới của ông ấy,
chính là nhịp thở của tác phẩm: tính chính xác trong
từng tiết tấu.
NPV
Ông
tham gia vào việc
chuyển ngữ các tác phẩm của mình như thế nào?
ECO
Tôi
đọc
mọi bản dịch của các ngôn ngữ mà tôi có thể đọc.
Thường thì tôi luôn vui vẻ khi các dịch giả và tôi
được làm việc cùng nhau, vì tôi đã may mắn có được
những dịch giả đó đồng hành trong suốt cuộc đời.
Đến nay, chúng tôi cùng cộng tác trong một sự hiểu
biết lẫn nhau. Tôi cũng có dịp làm việc với các dịch
giả trong những ngôn ngữ mà tôi không biết, như là
tiếng Nhật, tiếng Nga và tiếng Hungary, bởi vì họ rất
thông minh nên họ có khả năng giải thích cho tôi hiểu
vấn đề là gì khi chuyển ngữ sang ngôn ngữ của họ,
và chúng tôi có thể thảo luận để giải quyết vấn đề
ấy.
NPV
Có
khi nào một
dịch giả giỏi gợi mở ra những khả năng mà ông chưa
từng nhận thấy trong văn bản gốc?
ECO
Có
chứ,
đều đó có thể xảy ra. Tôi xin nhắc lại, văn bản có
thể thông minh hơn chính tác giả. Đôi khi văn bản có
thể gợi mở những ý tưởng mà tác giả không hề biết
tới. Người dịch, bằng cách đưa văn bản sang một ngôn
ngữ khác, có thể phát hiện ra những ý tưởng mới và
lật mở nó cho ta.
NPV
Ông
có đọc
tiểu thuyết của các tác giả cùng thời không?
ECO
Không
nhiều
lắm. Từ khi trở thành tiểu thuyết gia, tôi nhận thấy
rằng mình có phần thiên lệch. Hoặc là tôi thấy một
cuốn tiểu thuyết dở hơn cuốn của tôi và tôi không
thích nó, hoặc là tôi ngờ là nó tốt hơn cuốn của tôi
và cũng không thích nó nốt.
NPV
Ông
nghĩ thế
nào về tình trạng của văn học Ý ngày nay. Liệu ở Ý
có những tác giả vĩ đại như đã từng có trên đất
Mỹ?
ECO
Tôi
không biết
liệu có những tác giả vĩ đại không, nhưng hẳn là
chúng ta đã nâng tầm những tác giả trung bình. Sức mạnh
của văn học Mỹ, như cô thấy đấy, không chỉ đơn
giản là có được Faulkner, Hemingway hay Bellow, mà còn cần
phải có một binh đoàn hung hậu các tác giả tầm trung
có khả năng tạo ra một nền văn học thương mại đủ
sức nặng. Dòng văn học này cần đến một sự thành
thạo nhất định, nhất là trên mảnh đất màu mỡ của
tiều thuyết trinh thám – đối với tôi là một kiểu
thang đo cho sản lượng của bất cứ nền văn học nào.
Binh đoàn của các nhà văn bậc trung đó chứng tỏ rằng
nước Mỹ có khả năng cung cấp đủ sản phẩm để làm
thỏa mãn nhu cầu của độc giả Mỹ. Đó là lý do
vì sao họ dịch rất ít. Ở Ý, thể loại văn học đó
đã biến mất một thời gian khá dài, nhưng giờ đây ít
nhất đã có một nhóm nhà văn trẻ đang xuất bản loại
sách như thế. Tôi không phải là một trí thức hợm
hĩnh, tôi không nghĩ , mà tôi nhận ra rằng dòng văn học
đó là một phần trong văn hóa đọc của một đất nước.
NPV
Nhưng
vì
sao chúng ta không nghe danh những nhà văn Ý? Vào thời điểm
này, có lẽ ông là nhà văn Ý duy nhất được đọc trên
toàn thế giới, hoặc nếu không, ít nhất cũng là trong
một phạm vi rộng lớn.
ECO
Dịch
thuật là một vấn đề. Ở Ý, hơn 20% sản phẩm trên
thị trường là sách dịch. Ở Mỹ, tỉ lệ chỉ là 2%.
NPV
Nabokov
từng
nói “Tôi
phân chia văn học ra làm hai loại: những cuốn sách tôi
ước mình đã từng viết và những cuốn tôi đã viết
rồi.”
ECO
Thôi
được
rồi, tôi
sẽ xếp vào loại đầu tiên sách của Kurt Vonnegut, Don
Delillo, Philip Roth và Paul Auster. Nhìn chung thì tôi thích
văn học Mỹ đương đại hơn là văn học Pháp, dù nền
tảng văn hóa của tôi ảnh hưởng chủ yếu từ Pháp cho
những gần gũi về mặt địa lý. Tôi được sinh ra gần
biên giới, và tiếng Pháp là ngôn ngữ đầu tiên tôi
được học. Có lẽ tôi còn biết về văn học Pháp nhiều
hơn là văn học Ý.
NPV
Và
nếu
như ông phải nêu ra các ảnh hưởng?
ECO
Thường
thì tôi sẽ nói Joyce và Borges để khiến người phỏng
vấn thôi hỏi thêm, dù điều đó không hoàn toàn đúng. Gần
như tất cả đều có ảnh hưởng lên tôi. Joyce và
Borges, hẳn nhiên rồi, nhưng cả Aristotle, thánh Thomas
Aquinas, John Locke … bất cứ ai cô có thể nghĩ ra.
NPV
Thư
viện của ông tại Milan chứa đựng một huyền thoại
trong
chính bản thân nó. Ông thích sưu tầm loại sách nào?
ECO
Tôi
sở
hữu tổng cộng khoảng năm mươi nghìn quyển sách.
Nhưng
là một người sưu tầm sách hiếm, tôi đặc biệt bị
lôi cuốn bởi xu hướng ưa thích những điều nhảm nhí
của con người. Vậy nên tôi sưu tầm sách về tất cả
các chủ đề mà tôi không tin, như là kabbalah
[phép
thuật của người Do Thái], trò
giả
kim, phép
thuật, các kiểu giả-ngôn ngữ. Những cuốn sách nói
dối, dù không cố tình. Tôi có cả Ptolemy, chứ không
phải Galileo, vì Galileo nói sự thật. Tôi để ý đến
khoa học bên lề như vậy hơn [lunatic science].
NPV
Với
nhiều sách như vậy, làm sao ông có thể biết
hôm đó sẽ chọn quyển nào để đọc?
ECO
Tôi
không đến
bên giá sách để chọn sách đọc. Tôi đến bên giá sách
để lấy cuốn sách mà tôi biết là mình cần khi ấy. Đó
là hai chuyện khác hẳn nhau. Ví dụ như, nếu cô hỏi tôi
về các tác giả đương đại, tôi sẽ nhìn về phía bộ
sưu tập các tác phẩm của Roth hoặc Delillo để nhớ xem
chính xác mình thích cuốn nào. Tôi là một học giả.
Chính vì thế tôi có thể nói rằng tôi không bao giờ
được tự do lựa chọn. Tôi hành động theo yêu cầu của
công việc mà tôi đang làm, bất kể đó là lúc nào.
NPV
Ông
có cho, tặng
sách bao giờ
không?
ECO
Tôi
nhận
một số lượng khổng lồ sách mỗi ngày: tiểu thuyết,
ấn bản mới của số sách mà tôi đã có, mỗi tuần tôi
lại đóng vài thùng và gửi đến trường đại học của
tôi, nơi có một cái bàn to mà trên đó có một dấu hiệu
gợi ý rằng ta hãy chộp lấy một cuốn sách và chạy
cho thật nhanh.
NPV
Ông
là một
trong những trí thức được đông đảo công chúng biết
đến nhất. Vậy ông định nghĩa thế nào về từ “trí
thức”? Liệu nó còn có một ý nghĩa đặc biệt hay
không?
ECO
Nếu
định nghĩa khái niệm
“trí
thức” [intellectual] như một người chỉ làm việc bằng
cái đầu chứ không với đôi tay, thì một nhân viên ngân
hàng là trí thức còn Michelangelo thì không. Và ngày nay,
với một chiếc máy tính, tất cả mọi người đều là
trí thức. Vậy nên tôi nghĩ rằng không có gì để nói
về nghề nghiệp của một người, hay địa vị xã hội
của họ. Theo tôi, một trí thức là người sáng tạo ra
tri thức mới. Một người nông dân hiểu rằng chiết cây
ghép cành cho thể cho ra một giống táo mới, đó chính là
lúc người đó thực hiện một hoạt động trí thức.
Trong khi đó, một giáo sư triết học cả đời lặp đi
lặp lại một bài giảng về Heidegger không thể được
coi là một trí thức. Phê bình sáng tạo [critical
creativity] – phê bình chính những gì chúng ta đang làm
hoặc tìm ra cách tốt hơn để làm điều ấy, chính là
dấu hiệu duy nhất của một trí thức vẹn toàn.
NPV
Trí
thức
ngày nay có còn thiết
tha với
khái niệm nghĩa vụ chính trị [political
duty], như chúng ta ở vào thời điểm của Sartre và
Foucault?
ECO
Tôi
không tin rằng
để thực hiện nghĩa vụ chính trị, người trí thức
phải hành động như thành viên của một đảng phái, hay
tệ hơn, chỉ quan tâm đến những vấn đề xã hội đương
thời. Những trí thức nên tham gia vào chính trị như bất
cứ công dân nào khác. Ở mức độ cao nhất, một trí
thức có thể dùng danh tiếng của mình để ủng hộ một
quan điểm nào đó. Nếu như ở đây có một tuyên bố
nào đó liên quan đến vấn đề môi trường, ví dụ như
vậy, một chữ ký của tôi có thể giúp gì đó, vậy thì
tôi sẽ dùng danh tiếng của mình cho động thái chung đó.
Vấn đề ở đây là người trí thức chỉ có ích trong
một tương lai có liên đới đến họ, chứ không phải
trong thực tại. Nếu như ta ở trong một nhà hát đang bốc
cháy, một nhà thơ sẽ không trèo lên ghế và đọc thơ.
Anh ta phải gọi lính cứu hỏa đến, như mọi người
khác. Nhiệm vụ của người trí thức là nói lên điều
đó từ trước khi sự việc xảy ra: Hãy để tâm đến
nhà hát đó vì nó đã cũ kỹ và nguy hiểm! Như vậy, lời
nói của anh ta sẽ có chức năng dự đoán của một lời
kêu gọi hành động. Nhiệm vụ của người trí thức là
nói, Chúng ta cần làm điều này, chứ không phải là
Chúng ta phải làm điều kia ngay bây giờ! – đó là nhiệm
vụ của chính trị gia. Nếu như xã hội không tưởng
[utopia] của Thomas More có tồn tại, tôi ngờ rằng đó sẽ
là một kiểu xã hội như dưới thời Stalin.
NPV
Tri
thức
và văn hóa đã đem lại lợi ích gì cho cuộc đời ông?
ECO
Nếu
một người mù chữ chết vào tuổi của tôi chỉ sống
được môt cuộc đời, còn tôi thì đã sống được cuộc
đời của Napoleon, Caesar, d’Artagnan. Vậy nên tôi luôn
khuyến khích các bạn trẻ đọc sách, bởi vì đó là ý
tưởng tuyệt vời để bồi đắp một trí nhớ tốt và
một nhân cách rộng mở. Và khi đến cuối đời mình,
bạn đã sống được vô số cuộc đời khác, đó là một
đặc ân tuyệt vời.
NPV
Nhưng
một trí nhớ siêu
phàm cũng có thể là một gánh nặng vô cùng. Giống như
trường hợp của Funes, một những nhân vật Borges đã
sáng tạo ra và được ông ưa thích, trong truyện “Funes
the Memorious” .
ECO
Tôi
thích khái niệm
cứng đầu-thờ ơ [stubborn incuriosity]. Để có được khả
năng đó, ta phải tự giới hạn bản thân trong một số
phạm vi kiến thức.Ta không thể nào nhồi nhét mọi thứ
vào mình được. Ta phải bắt mình không được học tất
cả mọi điều trên đời. Nếu không, ta sẽ không học
được bất cứ thứ gì cả. Hỏi hỏi [culture], theo nghĩa
này, là học cách lãng quên. Còn không, một người sẽ
trở nên như Funes, người nhớ chính xác mọi chiếc lá
trên cái cây anh ta đã nhìn thấy từ ba mươi năm trước.
Hãy học cách phân biệt điều bạn muốn học và điều
bạn muốn nhớ, đó chính là điểm tối quan trọng để
có được nhân thức cho riêng mình.
NPV
Nhưng
không
phải chính việc văn hóa [culture], theo nghĩa rộng, đã là
một tấm lọc rồi sao?
ECO
Đúng
vậy,
văn hóa của mỗi chúng ta (our private culture – cũng chính
là học hỏi), là một lựa chọn phụ trợ, vì văn hóa,
theo nghĩa rộng, đã có hàm ý phân biệt. Theo cái nhìn
đó, văn hóa là một quá trình trong đó một cộng đồng
gợi ý cho ta đều gì cần nhớ và điều gì cần quên.
Khi nhìn vào mỗi cuốn bách khoa tri thức, chính văn hóa
quyết định rằng cuộc sống của Calpurnia sau cái chết
cua chồng bà, Julius Caeser là không đáng nhắc đến. Hầu
như không có gì đặc biệt xảy ra với bà. Trong khi đó,
Clara Schumann
lại
trở nên quan trọng hơn sau cái chết của Schumann.
Người
ta đồn rằng bà là người tình của Brahms, vì rồi bà
trở thành một nghệ sĩ piano được đánh giá cao nhờ
vào chính khả năng của mình. Và tất cả đều đúng cho
đến khi một nhà sử học đưa ra được một văn bản
chưa từng thấy trước đây, chứng minh rằng một điều
chúng ta từng thờ ơ, lại là điều gì đó quan trọng.
Nếu
như văn hóa không phải là một tấm lọc, thì nó sẽ trở
nên vô nghĩa – cũng giống hệt như bản chất mênh mang
nhưng mờ mịt của Internet. Nếu có được tất cả những
tri thức vô hạn ấy, chúng ta sẽ trở nên đần độn
hết cả! Văn hóa là một công cụ để tạo nên hệ
thống thứ bậc trong lao động trí óc. Tôi và cô chỉ
cần biết rằng, Einstein là người đã đưa ra thuyết
tương đối. Nhưng việc thực sự hiểu được lý thuyết
đó, ta hãy để cho các chuyên gia. Vấn đề thực sự là
có quá nhiều người tin rằng mình có quyền trở thành
một chuyên gia như thế.
NPV
Ông
nghĩ gì về
những lời cảnh báo về cái chết của tiểu thuyết, của
sách, hay cái chết của văn hóa đọc?
ECO
Tin
vào
đoạn kết của một điều gì đấy là một thái độ
văn hóa hết sức điển hình. Từ thời Hy Lạp, La Mãn,
chúng ta đã không ngừng tin rằng tổ tiên vượt trội
hơn mình. Tôi luôn thấy vui thích và hứng thú với cuộc
chạy đua này, điều mà truyền thống đại chúng đã
khai thác với cường độ ngày càng mạnh mẽ hơn. Mỗi
mùa lại có một bài báo về sự cáo chung của tiểu
thuyết, sự chấm dứt của văn chương, cái chết cho văn
hóa đọc ở nước Mỹ. Người ta không còn đọc nữa!
Thanh thiếu niên chỉ biết chơi video games! Sự thật của
vấn đề là khắp nơi trên thế giới vẫn có hàng nghìn
cửa hiệu đầy sách và đầy những độc giả trẻ.
Trong lịch sử loài người chưa từng có nhiều sách đến
thế, nhiều nơi bán sách đến thế, với chừng đó người
trẻ ghé thăm và mua sách.
NPV
Vậy
ông sẽ nói gì với những người tuyên truyền thái quá
đó?
ECO
Văn
hóa liên tục
biến đổi để thích nghi với hoàn cảnh mới. Đó có
thể là một văn hóa hoàn toàn mới, nhưng đó sẽ luôn
là văn hóa. Sau sự sụp đổ của Đế chế La Mã, nhiều
thế kỷ đã chứng kiến những thay đổi sâu sắc, về
ngôn ngữ, chính trị, tôn giáo và văn hóa. Chừng đó
thay đổi đang diễn ra hiện nay với tốc độ nhanh gấp
mười lần. Nhưng những dạng thức mới thú vị sẽ xuất
hiện và văn học sẽ vượt qua thử thách.
NPV
Trước
đây ông từng nói, ông muốn mình được nhớ tới như
là một học giả hơn là một tiểu thuyết gia. Điều
đó đúng chứ?
ECO
Tôi
không nhớ
đã nói điều đó, vì kiểu tuyên bố như thế sẽ thay
đổi tùy theo hoàn cảnh tôi nhận được câu hỏi. Nhưng
ở thời điểm này, kinh nghiệm đã dạy tôi rằng công
trình của một học giả phải chật vật để tồn tại,
vì các lý thuyết luôn đổi mới liên tục. Aristotle sống
sót, nhưng vô vàn công trình cách đây một thế kỷ đã
không được tái bản. Trong khi đó, rất nhiều tiểu
thuyết vẫn còn lại với chúng ta đến ngày nay. Dựa vào
sự thật đó, có thể thấy rằng cơ hội được nhớ
tới như một nhà văn cao hơn là như một học giả, và
tôi nhận thức những bằng chứng này một cách rạch
ròi, dù chúng không được như ước muốn của tôi.
NPV
Đối
với ông, ý niệm rằng tác phẩm của mình sẽ được
nhớ đến có tầm quan trọng như thế nào? Ông có thường
nghĩ đến di sản của mình không?
ECO
Tôi
không tin một
người chỉ viết cho bản thân mình đọc. Tôi tin rằng
viết là một cử chỉ của tình yêu – bạn viết để
dành tặng điều gì cho ai đó. Để giao tiếp. Để chia
sẻ với người khác những cảm xúc của mình. Câu hỏi
tác phẩm của mình sẽ tồn tại trong bao lâu luôn là câu
hỏi cơ bản đối với mỗi người viết, không chỉ là
với tiểu thuyết gia hay nhà thơ. Sự thật là, triết gia
viết sách để thuyết phục nhiều người tin vào lý
thuyết của ông ta, và hy vọng ba nghìn năm sau, nhân loại
vẫn sẽ đọc được nó. Điều đó cũng giống như ta hy
vọng rằng con cái sẽ tưởng nhớ mình, và nếu như bạn
có cháu chắt, nó cũng sẽ tưởng nhớ con cái bạn. Mỗi
người đặt niềm hy vọng vào một sự nối tiếp. Khi
một nhà văn nói, Tôi không quan tâm đến số phận các
cuốn sách của tôi, anh ta đơn giản là một kẻ dối
trá. Anh ta nói điều đó chỉ để làm hài lòng người
phỏng vấn.
NPV
Đến
thời điểm này ông có mối ân hận nào không?
ECO
Tôi
hối
hận mọi thứ, vì tôi đã phạm phải vô cùng, vô cùng
nhiều sai lầm trên mọi bước đường đời. Nhưng nếu
tôi được bắt đầu lại, thì thành thật mà thôi, tôi
nghĩ mình sẽ lặp lại những sai lầm y như vậy. Tôi nói
nghiêm túc đấy nhé. Tôi đã dành cả đời mình quan sát
mọi hành vi và tư tưởng, rồi chỉ trích bản thân. Tôi
nghiêm khắc đến nỗi tôi sẽ không bao giờ cho cô biết
điều tôi tự trách bản thân mình ghê gớm nhất là gì,
ngay cả khi cô ra giá một triệu dollars.
NPV
Có
cuốn
sách nào ông chưa bao giờ viết nhưng lại ước ao mình
đã từng?
ECO
Có,
chỉ
một cuốn thôi. Cho đến tuổi năm mơi và trong suốt
những năm tháng tuổi trẻ, tôi đã ước ao có thể viết
được một cuốn sách về lý thuyết hài kịch. Tại sao
ư? Bởi vì tất cả các cuốn sách về chủ đề này đều
thất bại, ít nhất là tất cả những cuốn tôi từng
đọc. Tất cả những nhà lý luận về hài kịch, từ
Freud cho đến Bergson, đã giải thích một vài khía cạnh
của loại hình này, nhưng chưa ai chạm được vào nó một
cách toàn diện. Vậy nên tôi tự nhủ với bản thân, hẳn
là mình sẽ muốn viết nên một lý thuyết thực sự về
hài kịch. Nhưng rồi việc đó trở nên quá khó khăn. Nếu
tôi biết vì sao nó lại khó đến thế, chắc tôi đã có
câu trả lời và viết ra cuốn sách.
NPV
Nhưng
ông đã viết sách về cái Đẹp và gần đây, về cái
Xấu. Những khái niệm đó không phải rất khó nắm bắt
hay sao?
ECO
So
với
cái Đẹp và cái Xấu, hài kịch đáng
sợ hơn nhiều. Tôi không nói đến chuyện cười cợt,
xin cô lưu ý cho. Không đâu, những sắc thái tình cảm bí
ẩn trong vở hài kịch nó phức tạp đến nỗi tôi không
tài nào giải thích được. Và ôi chao, chính bởi vậy mà
tôi đã không viết cuốn sách nào về nó.
NPV
Hài
kịch
có phải là một sáng tạo đặc trưng của con người
không, giống như bịa chuyện vậy?
ECO
Phải,
dường như là các loài động vật khác không có khiếu
hài hước. Chúng ta biết rằng chúng có thể giả vờ,
chúng biết buồn, mít ướt, chúng cũng đau khổ. Chúng ta
có bằng chứng là chúng vui, khi chúng vui đùa với ta,
nhưng không có gì chứng tỏ chúng có những cảm xúc hài
kịch. Đó là một trải nghiệm của riêng con người, bao
gồm… Nhưng mà không, tôi không thể nói chính xác được.
NPV
Tại
sao vậy?
ECO
Hừm,
được thôi.
Tôi ngờ rằng điều này có liên hệ với sự thật là
chúng ta là loại động vật duy nhất nhận thức được
rằng mình sẽ chết. Những loài khác không biết điều
đó. Chúng chỉ hiểu ra khi thời điểm cái chết đã cận
kề. Chúng không có khả năng tuyên ngôn bất cứ điều
gì tương tự như là khẳng định: Tất cả con người
đều chết. Chúng ta có khả năng làm điều đó, và đó
hẳn là lý do giải thích cho tôn giáo, lễ nghi và mọi
đều khác nữa. Tôi nghĩ rằng hài kịch là phản ứng
tinh túy nhất của con người đối với nỗi sợ cái
Chết. Tôi không thể nói thêm điều gì khác nữa. Như
tôi sẽ tạo ra một bí ẩn trống rỗng ngay bây giờ, để
cho mọi người nghĩ rằng tôi có một nghiên cứu về lý
thuyết hài kịch, vậy là khi tôi chết người ta sẽ tốn
cả đống thời gian để cố tìm cho được cuốn sách bí
ẩn của tôi.
Sự
thật là, ước
ao viết sách về hài kịch của tôi đã khiến tôi viết
Tên
của Đóa Hồng.
Đó là một trong những trường hợp cho thấy rằng, khi
ta không thể dựng nên một lý thuyết, thì ta chuyển
hướng sang kể một câu chuyện. Và tôi tin rằng trong Tên
của Đóa Hồng,
xuôi theo dòng truyện kể, tôi đã phát lộ được một
lý thuyết nào đó về hài kịch. Hài kịch như là một
biện pháp mạnh mẽ để ngăn chặn thói cuồng tín, hay
là một bóng mây ngờ vực ranh mãnh ẩn sau mỗi tuyên
ngôn về sự thật.
----
Bài gốc: http://www.theparisreview.org/interviews/5856/the-art-of-fiction-no-197-umberto-eco
----
Bài gốc: http://www.theparisreview.org/interviews/5856/the-art-of-fiction-no-197-umberto-eco
Chú thích:
[1]
Người Neanderthal
là một
loài trong chi Người Homo Linnaeus, đã tuyệt chủng. Người
Neanderthal được xem là phụ loài so với nhánh chính là
Homo sapiens – chính là người hiện đại.
[2]
Nói thêm cho rõ: Umberto
Eco cho
rằng mọi hiện tượng văn hóa đều có thể được
nghiên cứu như là một dạng truyền thông (Nguồn:
Wikipedia - Caesar,
Michael (1999). Umberto Eco: Philosophy, Semiotics, and the Work of
Fiction. Wiley-Blackwell. tr. 55. ISBN 9780745608501.)
[3]
Xem thêm tại https://en.wikipedia.org/wiki/Deconstruction
[4]
Bí mật của hội Tam Điểm, xem thêm tại:
https://en.wikipedia.org/wiki/Freemasonry
[5]
Một lý thuyết cho rằng người Do Thái có âm mưu làm bá
chủ thế giới. Xem thêm tại
https://en.wikipedia.org/wiki/The_Protocols_of_the_Elders_of_Zion
Comments
Post a Comment