Skip to main content

no man's land hay là Vua Lear và Manon Lescaut



King Lear và đoạn kết của Manon Lescaut

(các hình ảnh trong bài được lấy từ nhiều nguồn trên internet)




Khái niệm "no man's land" trong bài được hiểu với nghĩa: vùng đất không có người ở hay không có sự hiện diện của con người.

Khi bị hai con gái bỏ rơi, Lear hóa điên và đi vào cơn bão. Mưa gió hay sự thịnh nộ của thánh thần đã khiến Lear trở thành hình tượng chân thực nhất cho condition humaine (*): khi tất cả của cải vật chất, địa vị đều tan rã, con người trở về nhân dạng trần trụi của mình. Điều đó đã được Shakespeare hé lộ với Poor Tom (Edgar giả dạng) để mào đầu cho bi kịch của Lear. (tóm tắt Vua Lear bằng tiếng Việt tại đây)


Act 3, scene 4
Why, thou wert better in thy grave than to answer with thy uncovered body this extremity of the skies.—Is man no more than this? Consider him well.—Thou owest the worm no silk, the beast no hide, the sheep no wool, the cat no perfume. Ha! Here’s three on ’s are sophisticated. Thou art the thing itself.Unaccommodated man is no more but such a poor, bare, forked animal as thou art.—Off, off, you lendings! Come. Unbutton here. (tears at his clothes)
Anh mới là thật.Cái giống người không cuộn trong lớp vỏ văn minh thì không hơn gì con thú hai chân khôn khổ, trần truồng như anh.Hãy lột bỏ cái mớ quần áo vay mượn từ súc vật này đi! Để ta vứt bỏ hết mớ này ra! (xé toạc quần áo).

ảnh từ nypost.com
ảnh từ suzygoessee.com



tạm dịch theo bản Modern text trên Sparknotes
Thà chết còn hơn là phải trần truồng đi vào mưa bão. Con người là như thế sao? Nhìn hắn ta kìa (nói với Edgar). Anh chẳng nợ nần gì loài súc vật cho lụa là, gấm len, da thuộc, mùi thơm. So với anh, ba chúng ta quá là giả dối đi.


Hay khi Lear được đưa lên sân khấu của Niel Armfield (bài của tác giả Hoa Gruber trên soi.today - bài gồm 2 phần, ấn vào đây để đọc)
[...]
Cảnh 3, màn mưa bão được tạo nên bởi quạt máy lớn và hệ thống tưới nước. Trong một tiếng đồng hồ “mưa” xối xả dội xuống Vua Lear, Hề, Kent, và Edgard. Ánh sáng chói lòa và gió thốc từ chiếc quạt sắt lớn vào những thân thể co quắp, loạng choạng, ướt lướt thướt. Tiếng mưa gió ầm ầm, cuồng nộ, nhấn chìm không chỉ các diễn viên mà cả lời thoại của họ. Diễn viên, bằng trực cảm đã hét to hơn cả tiếng mưa bão. Cái quạt tạo gió và ánh sáng lồ lộ ở bên phải sân khấu. Không còn dấu vết của tấm ri đô thứ tư mà diễn viên của Stanislavsky tưởng tượng ra để khán giả có cảm giác đang chứng kiến một mảnh của thế giới thật diễn ra trước mắt. Mục kích cơ cấu dựng kịch vẫn được giấu trong hậu trường của sân khấu “tự nhiên” và “hiện thực” buộc khán giả phải thay đổi cách cảm nhận và thưởng thức.

[..]
Sau nghỉ giải lao, màn kéo lên thì một khoảng không trắng đục lộ ra. Ánh sáng chói lòa trùm lên màn hơi tạo thành mây trắng lên sân khấu. Các nhân vật lơ lửng, lọt thỏm trong khoảng không rộng lớn. Từ sau nghỉ giải lao cho đến hết vở kịch chỉ diễn ra trong không gian trắng này.

[..]
Thiết kế sân khấu được thực hiện bởi Robert Cousins, người cộng tác của Armfield trong nhiều năm. Thiết kế này lại được ánh sáng của Nick Schlieper phụ trợ. Thiết kế tinh giản của vở kịch như thể đã cân nhắc có thể bỏ những gì ra khỏi sân khấu mà vẫn kể được chuyện. Trong vở này, Robert đã thực hiện điều mà anh đã hướng tới từ lâu: tạo nên khoảng trống hoàn hảo. Bất cứ cái gì để vào khoảng trống đó đều trở nên quan trọng. Và quả thật, phần mở đầu và phần cuối, sân khấu của Vua Lear là khoảng hoàn toàn trống, trong đó những sợi kim tuyến vàng cũng mang đầy biểu tượng. Không gian trống đó thể hiện ý tưởng xuyên suốt của vở kịch: diễn tả những gì xẩy ra khi một người bị mất tất cả. Armfield muốn vở kịch đặt các câu hỏi: “Khi một người bị mất hết thì sẽ khám phá ra điều gì? Thế nào là cuộc sống, xã hội, là tâm trí con người? Thế nào là khái niệm trừu tượng mà chúng ta gọi là tình yêu ?”

hoặc trên màn ảnh với phiên bản điện ảnh của Akira Kurosawa (Ran, 1985)




Hình tượng con người nhỏ bé, đánh mất tất cả và bị phơi trần trên trên một vùng không gian hiu quạnh cũng được khắc họa trong đoạn cuối của L’histoire du chevalier Des Grieux et Manon Lescaut (Abbé Prévost, 1731) khi đôi tình nhân bị đưa đến Nouvelle Orléans (New Orleans), đêm Manon chết trong vòng tay Des Grieux, được Jean Sgard chỉ ra trong cuốn Prévost romancier (1968, Paris, trang 235) ,: “[I]l essaie, contre tout espoir, de conjurer son sort, mais il est condamné [...] [I]l est frappé par le ciel, et sous le ciel, dans un désert où rien ne peut le protéger, frappé dans ses amours.”

tạm dịch: Chàng cố gắng thay đổi số phận, nhưng mọi sự đã được an bài, chàng đã bị kết án. [..] Chàng bị Ông Trời trừng phạt, trần trụi giữa sa mạc hoang vu, bị trừng phạt vì những đam mê của mình.

(*) khái niệm này xin tạm dịch là "phận làm người". Định nghĩa theo wikipedia ở đây.

Comments

Popular posts from this blog

Thế nào là “không gian” trong sân khấu? – một số gợi mở từ Die Klage der Kaiserin (1989) của Pina Bausch

. [Bài viết từ tháng 6 năm 2021]         Die Klage der Kaiserin là bộ phim đầu tay và cũng là duy nhất của Pina Baush. Phim được quay từ tháng mười năm 1987 đến tháng tư năm 1988 tại Wuppertal, ra mắt vào năm 1989 nhưng phải tới năm 2011 mới được phát hành bản DVD. Trong gần năm thập kỷ sự nghiệp, Bausch chỉ vài lần cho phép các tác phẩm của mình được thu hình lại, vậy nên ngoài việc tới nhà hát xem tận mắt, khán giả có khá ít cơ hội để trải nghiệm trọn vẹn các tác phẩm của bà. Cơ hội ấy đã mở ra với Die Klage der Kaiserin (tạm dịch: “Lời than thở của nữ vương”) - một thử nghiệm đưa sân khấu kịch-múa của Pina lên màn hình lớn, khi nghệ sĩ chấp nhận những khả năng và những rủi ro của việc dùng các phương tiện của điện ảnh để diễn giải sân khấu.       Bộ phim mở ra với một cảnh ngoại, ở chính giữa khung hình là một người phụ nữ đang dùng máy thổi lá để thổi tung những chiếc lá vàng đang phủ kín mặt đất xung quanh. Âm thanh thực của cảnh ...

Rì viu một cuốn sách giản dị

"Le sumo qui ne pouvait pas grossir" (xuất bản ở Viêt Nam dưới tên "Chàng su mô không thể béo") của Éric-Emmanuel Schmitt là một cuốn sách giản dị. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ thất vọng với những lựa chọn của NXB Abin Michel (niềm tin có được từ trường hợp của Amélie Nothomb). Nằm trong chuỗi Cycle invisible (tạm dịch là Chuỗi vô hình), được giới thiệu trên wikipedia như là một serie các tác phẩm khai thác chủ đề tôn giáo, câu chuyện về chàng sumô có vẻ khác biệt. Anh chàng này tên là Jun, 15 tuổi, bỏ nhà lên Tokyo (là Tokyo ở Nhật ấy nhé) bán DVD và mấy thứ sextoys kì dị trên vỉa hè. Có một người bố tự tử vì chán nản cuộc sống, một người mẹ "thiên thần" yêu thương tất cả mọi người như nhau, nó sống lửng lờ và "dị ứng cả vũ trụ". Cho đến một hôm một ông trung niên đến ngó vào mặt nó và bảo: Ê có một thằng to tướng ở trong mày đấy. Thế là cuộc đời của Jun đùng một cái thay đổi. Nó học trở thành đô vật sumô dù rằng gầy nhẳng và ăn mãi không mập, ...

Bếp, và tuổi 23

Bây giờ là gần 2h rưỡi sáng. Mình vừa tạm viết xong bài thuyết trình cho môn thi cuối cùng. Tự dưng thèm canh chua thịt bò, thế là rã đông một phần thịt còn trong tủ, cùng một ít sấu ăn xin được từ hồi lên Paris đợt Toussaints. Và trong lúc đợi bếp sôi, ngồi viết những dòng này (liệu có giống ngày Tết ngồi canh bánh chưng không nhỉ?) Chỉ biết là mấy tháng nay, sống trong một cái nhà không phải của mình, nấu ăn trong một cái bếp không do tay mình sắp xếp, thấy thật nhiều gượng gạo và đắn đo. Nhưng có lẽ, vài tuần nữa mình sẽ chuyển đến một không gian mới, một căn bếp mới, và sẽ thấy thoải mái hơn chăng? Vài tuần nữa, mình sẽ sang tuổi 23. Biết nói thế nào nhỉ, tuổi 22 đã dạy mình nhiều thứ. Mình xem tử vi thì thấy năm tới không xui cũng không may, nhưng số mình thì còn lâu nữa mới sướng được. Cũng chẳng biết có nên suy nghĩ về điều ấy không, vì rốt cuộc, cuộc đời cũng chỉ có lên và xuống, đâu mãi bằng phẳng được. Và rồi những gì mình có được hay đánh mất đi khi đi qua con đường ấ...