Về vị trí của tôn giáo trong đời sống con người
Tồn tại xuyên suốt chiều dài lịch sử nhân loại, tôn giáo không ngừng tác động lên hai mặt của đời sống con người: cộng đồng và cá thể. Ở cả hai bình diện đó, tôn giáo đều phát huy chức năng bù đắp của mình. Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa, chức năng bù đắp đó chẳng những không hề suy giảm mà còn chuyển hóa thành những hình thức và khuynh hướng mới.
Về chức năng bù đắp của tôn giáo, hiện vẫn đang tồn tại nhiều kiến giải khác nhau - tùy theo góc độ đánh giá; chẳng hạn từ góc độ nhận thức: tôn giáo là sự bù đắp cho cái duy lí bằng cái phi duy lí; từ góc độ đời sống: - sự bù đắp cho cái tầm thường bằng cái siêu việt.
Tựu chung lại, các học giả đều nhất trí rằng: tôn giáo luôn là phần bù của mọi hiện thực để hiện thực đó trở nên hài hòa và hoàn thiện trong con mắt chủ thể. Truyền thống triết học biện chứng (từ triết học cổ điển Đức đến các biến thể mới của triết học marxist - neomarxist) tìm thấy bản chất của chức năng bù đắp của tôn giáo là khát vọng khắc phục tha hóa trên phương diện ý niệm.
Cái quá trình, theo đó, hành vi và sản phẩm của hành vi bị gián cách bởi vô số mắt khâu trung gian, để rồi sản phẩm quay trở lại thống trị chính chủ nhân ban đầu của nó như những lực lượng xa lạ - được quan niệm là sự tha hóa.
Các chiều cạnh (chiều-kích?) của sự tha hóa - cũng là các phương thức nuôi dưỡng tôn giáo trong lòng xã hội hiện đại, được khắc họa như sau:
1. Sự tha hóa của sản phẩm lao động khỏi người sản xuất;
2. Sự tha hóa của lao động;
3. Sự tha hóa của nhà nước là cái đại diện cho các lợi ích chung - khỏi lợi ích riêng và lợi ích nhóm (tập đoàn) bởi quá trình quan liêu hóa;
4. Sự tha hóa của con người khỏi giới tự nhiên;
5. Sự tha hóa của mối quan hệ giữa con người với nhau, do bị các quan hệ đồ vật ngăn cách;
6. Sự tha hóa khỏi các giá trị, quy phạm chuẩn - thể hiện thành sự giải thể các tổ chức xã hội và sự xung đột xã hội;
7. Sự tha hóa của con người khỏi con người - thể hiện như trạng thái cô đơn, lạc lõng, tự khép mình lại;
8. Sự tha hóa bên trong của mỗi cá nhân - đánh mất cái "tôi", bàng quan, thấy sự tồn tại của mình là trống rỗng, vô nghĩa.
Dưới góc độ tha hóa, tôn giáo thể hiện như tác nhân làm dịu nhẹ những hậu quả của sự gián cách giữa hành vi và kết quả của hành vi. Bằng việc đem lại niềm tin, sự an ủi hay cứu rỗi, và bằng việc đặt ra ý nghĩa của đời người trong một thế giới mới mà tại đó con người luôn đánh mất phương hướng, đánh mất bản thân - tôn giáo mang lại sự cân bằng cho các cá thể và cộng đồng về mặt tinh thần. Và ở một chừng mực nhất định, tôn giáo cũng giảm thiểu những tha hóa vật chất qua các hoạt động nhằm cổ vũ sự phân phối lại sản phẩm xã hội một cách từ thiện, công bằng và nhân ái hơn...
Chính vì thế (?), ngày nay giới nghiên cứu đã bắt đầu nhìn nhận tôn giáo với một thái độ khác trước. Nhứng ý nghĩa tích cực của tôn giáo đã được chú trọng, và tôn giáo cũng bắt đầu được nhìn nhận như "vật mang" văn hóa. Chẳng hạn, nhà sử học người Anh, Arnold Toynbeecho rằng - khi một dân tộc nào đó đánh mất tín ngưỡng tôn giáo của mình thì văn minh của họ tất suy thoái, cuối cùng sẽ bị một nền văn minh khác thay thế.
- Đại cương về văn hóa Việt Nam
TS Phạm Thái Việt, TS Đào Ngọc Tuấn
NXB Văn hóa - Thông tin
tr.46,47
Các phần trong (?) không có trong văn bản gốc.
Tồn tại xuyên suốt chiều dài lịch sử nhân loại, tôn giáo không ngừng tác động lên hai mặt của đời sống con người: cộng đồng và cá thể. Ở cả hai bình diện đó, tôn giáo đều phát huy chức năng bù đắp của mình. Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa, chức năng bù đắp đó chẳng những không hề suy giảm mà còn chuyển hóa thành những hình thức và khuynh hướng mới.
Về chức năng bù đắp của tôn giáo, hiện vẫn đang tồn tại nhiều kiến giải khác nhau - tùy theo góc độ đánh giá; chẳng hạn từ góc độ nhận thức: tôn giáo là sự bù đắp cho cái duy lí bằng cái phi duy lí; từ góc độ đời sống: - sự bù đắp cho cái tầm thường bằng cái siêu việt.
Tựu chung lại, các học giả đều nhất trí rằng: tôn giáo luôn là phần bù của mọi hiện thực để hiện thực đó trở nên hài hòa và hoàn thiện trong con mắt chủ thể. Truyền thống triết học biện chứng (từ triết học cổ điển Đức đến các biến thể mới của triết học marxist - neomarxist) tìm thấy bản chất của chức năng bù đắp của tôn giáo là khát vọng khắc phục tha hóa trên phương diện ý niệm.
Cái quá trình, theo đó, hành vi và sản phẩm của hành vi bị gián cách bởi vô số mắt khâu trung gian, để rồi sản phẩm quay trở lại thống trị chính chủ nhân ban đầu của nó như những lực lượng xa lạ - được quan niệm là sự tha hóa.
Các chiều cạnh (chiều-kích?) của sự tha hóa - cũng là các phương thức nuôi dưỡng tôn giáo trong lòng xã hội hiện đại, được khắc họa như sau:
1. Sự tha hóa của sản phẩm lao động khỏi người sản xuất;
2. Sự tha hóa của lao động;
3. Sự tha hóa của nhà nước là cái đại diện cho các lợi ích chung - khỏi lợi ích riêng và lợi ích nhóm (tập đoàn) bởi quá trình quan liêu hóa;
4. Sự tha hóa của con người khỏi giới tự nhiên;
5. Sự tha hóa của mối quan hệ giữa con người với nhau, do bị các quan hệ đồ vật ngăn cách;
6. Sự tha hóa khỏi các giá trị, quy phạm chuẩn - thể hiện thành sự giải thể các tổ chức xã hội và sự xung đột xã hội;
7. Sự tha hóa của con người khỏi con người - thể hiện như trạng thái cô đơn, lạc lõng, tự khép mình lại;
8. Sự tha hóa bên trong của mỗi cá nhân - đánh mất cái "tôi", bàng quan, thấy sự tồn tại của mình là trống rỗng, vô nghĩa.
Dưới góc độ tha hóa, tôn giáo thể hiện như tác nhân làm dịu nhẹ những hậu quả của sự gián cách giữa hành vi và kết quả của hành vi. Bằng việc đem lại niềm tin, sự an ủi hay cứu rỗi, và bằng việc đặt ra ý nghĩa của đời người trong một thế giới mới mà tại đó con người luôn đánh mất phương hướng, đánh mất bản thân - tôn giáo mang lại sự cân bằng cho các cá thể và cộng đồng về mặt tinh thần. Và ở một chừng mực nhất định, tôn giáo cũng giảm thiểu những tha hóa vật chất qua các hoạt động nhằm cổ vũ sự phân phối lại sản phẩm xã hội một cách từ thiện, công bằng và nhân ái hơn...
Chính vì thế (?), ngày nay giới nghiên cứu đã bắt đầu nhìn nhận tôn giáo với một thái độ khác trước. Nhứng ý nghĩa tích cực của tôn giáo đã được chú trọng, và tôn giáo cũng bắt đầu được nhìn nhận như "vật mang" văn hóa. Chẳng hạn, nhà sử học người Anh, Arnold Toynbeecho rằng - khi một dân tộc nào đó đánh mất tín ngưỡng tôn giáo của mình thì văn minh của họ tất suy thoái, cuối cùng sẽ bị một nền văn minh khác thay thế.
- Đại cương về văn hóa Việt Nam
TS Phạm Thái Việt, TS Đào Ngọc Tuấn
NXB Văn hóa - Thông tin
tr.46,47
Các phần trong (?) không có trong văn bản gốc.
Comments
Post a Comment