Skip to main content

[ghi chép 2] rút ra từ các series

mình ghi lại đây danh sách những seris phim Mỹ mà mình đã xem trong khoảng 4 năm gần đây, nhất là 2 năm vừa rồi (tức là khoảng thời gian có thể xem tất cả những gì mình muốn miễn là tìm được bản online) :

danh sách theo trình tự thời gian

1. Hannibal (drop sau ss2)
2. X-Files (xem lại)
3. Grey's Anatomy (drop sau khoảng 3 seasons)
4. True Detective (drop sau ss1 thì thay diễn viên)
5. American Horror Story (ss1-2)
6. Scream Queen (drop sau khoảng 6 ep)
7. X-Files (ss9)
8. Jessica Jones (chỉ có 1 season và đã xem hết)
9. Dexter (ss1-2, đang xem)

tập trung vào title sequence, định nghĩa trên wikipedia như sau: title sequence is the method by which films or television programs present their title, key production and cast members, utilizing conceptual visuals and sound. It typically includes (or begins) the text of the opening credits, and helps establish the setting and tone of the program. It may consist of live action, animation, music, still images, and/or graphics.

tạm dịch: title sequence là phần mà phim hoặc chương trình truyền hình giới thiệu tựa đề, nhà sản xuất và dàn diễn viên, trong đó thể hiện các ý tưởng chủ đạo về hình ảnh và âm thanh. Phần này thường bao gồm danh sách đoàn làm phim/làm chương trình và giúp hình thành cho sản phẩm một cấu trúc và một phong cách cụ thể, nhờ vào các cảnh quay thực, đoạn phim hoạt hình, âm nhạc, hình tĩnh và/hoặc hình ảnh đồ họa.

từ cách tiếp cận này, có thể phân loại các title sequence của các series trên thành 3 nhóm:
1) cảnh thực: X-Files, Grey's Anatomy, Scream Queens, Jessica Jones
2) cảnh biểu tượng/ẩn dụ: AHS
3) cảnh thực và biểu tượng/ẩn dụ: Hannibal, True Detective, Dexter

tiêu chí này đương nhiên không cố định, và có thể thay đổi tùy theo nhận định thế nào là "thực" và thế nào là "biểu tượng/ẩn dụ".
tạm định nghĩa
cảnh thực: nhân vật trong phim xuất hiện, có thể có hành động hoặc không - thường là một đoạn cut từ phim. vd: X-Files
cảnh biểu tượng/ẩn dụ: nhân vật trong phim không xuất hiện, thay vào đó là 1 loạt các hình ảnh mang tính biểu tượng (dấu thập tượng trưng cho tôn giáo, máu tượng trưng cho xung đột và bạo lực v...v). vd: AHS
cảnh thực + biểu tượng/ẩn dụ: nhân vật xuất hiện, nhưng được gán với các biểu tượng. Nhóm thứ 3 này là khá phổ biến, và là đối tượng quan sát.
Ví dụ cho quan sát là Hannibal (2013-2015) và Dexter (2006-2013)






1) Hannibal là kẻ giết người ăn thịt (cannibal). Hình tượng này được xây dựng đồng nhất từ poster phim và xen kẽ với các tình tiết (bao gồm kỹ năng nấu nướng, các bàn tiệc, thưởng thức món ăn). Phần opening credit tương đối ngắn chỉ nhấn mạnh đến tính đẫm máu của hành động này. Máu là thứ "tạo nên" con người - các nhân vật khác, nhưng chỉ duy nhất Hannibal mới có "nhân dạng" (gương mặt, mặt nạ) hoàn toàn được tạo nên bởi máu.

2) Dexter cũng là kẻ giết người hàng loạt (nhưng không ăn thịt). Title sequence của Dexter là morning routine của nhân vật chính - kể lại những hoạt động buổi sáng của nhân vật, trước khi đi làm, cũng là trước khi đeo "mặt nạ" làm người bình thường. Thời điểm được là bản thân mình này thể hiện khá rõ bản chất của Dexter: mỗi cử chỉ (cạo râu, xiên thịt, ăn uống, cắt trứng, vắt cam-đỏ v..v) đều thể hiện kỹ năng và niềm vui giết chóc. Những gì chúng ta không nhìn thấy khi Dexter xử lý các kẻ thù của anh ta, thì sẽ luôn được nhất mạnh ngay từ đầu phim - đương nhiên, bằng cách gợi ra những liên tưởng. Ví du: các múi cam đỏ bị vắt kiệt nước.

Hai title sequence nêu trên củng cố nguyên tắc bù trừ: điều gì không "show" trong cảnh phim thì sẽ được thể hiện ở phần mở đầu mỗi tập phim và ngược lại. Nhưng mặt khác, điều gì quan trọng nhất sẽ được đưa lên đầu, và lặp đi lặp lại. Với Hannibal, đó là act of killing, còn với Dexer, là joy of killing. Việc Dexter xuất hiện một mình trong title sequence, trong khi Hannibal là 3 nhân vật, cũng cho thấy sự phân vai trong mỗi series là khác nhau. Dexter is a soloist.

/ghi chép đến đây là hết/

p/s: đây cũng là cơ sở cho bảng phân tích tích cách của mình nữa haha

Comments

Popular posts from this blog

Thế nào là “không gian” trong sân khấu? – một số gợi mở từ Die Klage der Kaiserin (1989) của Pina Bausch

. [Bài viết từ tháng 6 năm 2021]         Die Klage der Kaiserin là bộ phim đầu tay và cũng là duy nhất của Pina Baush. Phim được quay từ tháng mười năm 1987 đến tháng tư năm 1988 tại Wuppertal, ra mắt vào năm 1989 nhưng phải tới năm 2011 mới được phát hành bản DVD. Trong gần năm thập kỷ sự nghiệp, Bausch chỉ vài lần cho phép các tác phẩm của mình được thu hình lại, vậy nên ngoài việc tới nhà hát xem tận mắt, khán giả có khá ít cơ hội để trải nghiệm trọn vẹn các tác phẩm của bà. Cơ hội ấy đã mở ra với Die Klage der Kaiserin (tạm dịch: “Lời than thở của nữ vương”) - một thử nghiệm đưa sân khấu kịch-múa của Pina lên màn hình lớn, khi nghệ sĩ chấp nhận những khả năng và những rủi ro của việc dùng các phương tiện của điện ảnh để diễn giải sân khấu.       Bộ phim mở ra với một cảnh ngoại, ở chính giữa khung hình là một người phụ nữ đang dùng máy thổi lá để thổi tung những chiếc lá vàng đang phủ kín mặt đất xung quanh. Âm thanh thực của cảnh ...

no man's land hay là Vua Lear và Manon Lescaut

King Lear và đoạn kết của Manon Lescaut (các hình ảnh trong bài được lấy từ nhiều nguồn trên internet) Khái niệm " no man's land " trong bài được hiểu với nghĩa: vùng đất không có người ở hay không có sự hiện diện của con người. Khi bị hai con gái bỏ rơi, Lear hóa điên và đi vào cơn bão. Mưa gió hay sự thịnh nộ của thánh thần đã khiến Lear trở thành hình tượng chân thực nhất cho condition humaine (*): khi tất cả của cải vật chất, địa vị đều tan rã, con người trở về nhân dạng trần trụi của mình. Điều đó đã được Shakespeare hé lộ với Poor Tom (Edgar giả dạng) để mào đầu cho bi kịch của Lear. (tóm tắt Vua Lear bằng tiếng Việt tại đây ) Act 3, scene 4 Why, thou wert better in thy grave than to answer with thy uncovered body this extremity of the skies.—Is man no more than this? Consider him well.—Thou owest the worm no silk, the beast no hide, the sheep no wool, the cat no perfume. Ha! Here’s three on ’s are sophisticated. Thou art the thing itself. Unac...

/truyện - người nghệ sĩ bên ngoài bức tường

Platon nói, không có chỗ cho nghệ sĩ trong thành phố của tôi. Người nghệ sĩ chưa bao giờ đặt chân đến đó. Để đi đến thành phố của Platon, người nghệ sĩ đã lênh đênh trên rất nhiều con thuyền khác nhau, ăn những mẩu bánh mỳ thừa từ bữa ăn của các thủy thủ, và nhấm nháp những quả táo lên men. Những đêm biển lặng và bầu trời quang đãng, anh hát cho họ nghe những khúc ca của mặt đất. Tiếng hát và tiếng đàn hòa vào tiếng sóng vỗ ồ oạp vào mạn thuyền, đôi khi họ cũng hát với anh, đôi khi họ chỉ im lặng lắng nghe. Người nghệ sĩ thỉnh thoảng cũng hát những giai điệu do anh tự nghĩ ra, và kể cho chú bé học việc trên tàu rằng những con mòng biển đã dạy anh âm nhạc. Chúng chở trên đôi cánh những khúc ca của sóng và gió. Chú bé lắng nghe anh chăm chú và nói rằng hình như ngày bé, chú cũng từng hiểu ngôn ngữ của các loài chim. Khi lớn lên người ta bảo chú phải chọn lấy một nghề, như là làm nông, thợ rèn hay vào quân đội bảo vệ thành phố, chứ không thể có chuyện một con người hẳn hoi mà lại hót n...