Skip to main content

"je pensais à toi"

Người đàn ông tóc muối tiêu, mặc vest màu xám nhạt, một tay cầm điện thoại áp vào tai, tay kia cố gỡ dây chiếc tay nghe. Ông đứng trên những bậc thang nối tầng 1 và tầng 2 của toa tầu; từ trên nhìn xuống chỉ thấy một phần gương mặt nghiêng nghiêng. Không rõ người ở đầu bên kia là ai, chỉ nghe loáng thoáng được vài câu ông nói: "je pensais à toi".

câu này dịch sang tiếng Anh, chắc sẽ là: "I was thinking about you".

động từ "penser" chia ở imparfait, chỉ một trạng thái, hay một hành động kéo dài trong một khoảng thời điểm không xác định trong quá khứ. Sự nhớ nhung hẳn là một trạng thái, và khi nhớ nhung ai, ta sẽ chìm trong niềm trìu mến vô bờ, ta như đứa trẻ bước trong cái bóng thân thương và ấm áp của cha mẹ hay người thân, bàn chân líu ríu lại khi bàn tay còn mải níu lấy vạt áo người lớn. Hay trong một liên tưởng khác, những dòng nhớ nhung cũng có thể là những làn khói, mơ hồ nhưng đặc quánh, mỏng manh nhưng nhằng nhịt tuôn ra từ những điếu thuốc cứ tàn lại nối, đua nhau không dứt lấp kín phòng viết của Lương Triều Vĩ trong Tâm trạng khi yêu.
-
Khi má mình chạm vào vai áo bạn, cảm nhận được sự thô lạnh của chất vải, mình bỗng nhận ra là đôi khi mình cũng có quyền được yếu mềm. Trong những nhà ga, những toa tàu, nơi không có sự thân mật nào hiện hữu mà không bị cho là thiếu tế nhị, nơi ánh đèn neon là chúa của mọi loài ánh sáng, nhắc nhở người lữ khách rằng họ phải lao vào dòng người kia, giữa những hướng trái ngược của cùng một việc "đi", phải bứt khỏi mọi liên hệ để trở thành một con thoi cô độc, thì bỗng nhiên, mình nhận ra giá trị của thương yêu.

Comments

Popular posts from this blog

Thế nào là “không gian” trong sân khấu? – một số gợi mở từ Die Klage der Kaiserin (1989) của Pina Bausch

. [Bài viết từ tháng 6 năm 2021]         Die Klage der Kaiserin là bộ phim đầu tay và cũng là duy nhất của Pina Baush. Phim được quay từ tháng mười năm 1987 đến tháng tư năm 1988 tại Wuppertal, ra mắt vào năm 1989 nhưng phải tới năm 2011 mới được phát hành bản DVD. Trong gần năm thập kỷ sự nghiệp, Bausch chỉ vài lần cho phép các tác phẩm của mình được thu hình lại, vậy nên ngoài việc tới nhà hát xem tận mắt, khán giả có khá ít cơ hội để trải nghiệm trọn vẹn các tác phẩm của bà. Cơ hội ấy đã mở ra với Die Klage der Kaiserin (tạm dịch: “Lời than thở của nữ vương”) - một thử nghiệm đưa sân khấu kịch-múa của Pina lên màn hình lớn, khi nghệ sĩ chấp nhận những khả năng và những rủi ro của việc dùng các phương tiện của điện ảnh để diễn giải sân khấu.       Bộ phim mở ra với một cảnh ngoại, ở chính giữa khung hình là một người phụ nữ đang dùng máy thổi lá để thổi tung những chiếc lá vàng đang phủ kín mặt đất xung quanh. Âm thanh thực của cảnh ...

no man's land hay là Vua Lear và Manon Lescaut

King Lear và đoạn kết của Manon Lescaut (các hình ảnh trong bài được lấy từ nhiều nguồn trên internet) Khái niệm " no man's land " trong bài được hiểu với nghĩa: vùng đất không có người ở hay không có sự hiện diện của con người. Khi bị hai con gái bỏ rơi, Lear hóa điên và đi vào cơn bão. Mưa gió hay sự thịnh nộ của thánh thần đã khiến Lear trở thành hình tượng chân thực nhất cho condition humaine (*): khi tất cả của cải vật chất, địa vị đều tan rã, con người trở về nhân dạng trần trụi của mình. Điều đó đã được Shakespeare hé lộ với Poor Tom (Edgar giả dạng) để mào đầu cho bi kịch của Lear. (tóm tắt Vua Lear bằng tiếng Việt tại đây ) Act 3, scene 4 Why, thou wert better in thy grave than to answer with thy uncovered body this extremity of the skies.—Is man no more than this? Consider him well.—Thou owest the worm no silk, the beast no hide, the sheep no wool, the cat no perfume. Ha! Here’s three on ’s are sophisticated. Thou art the thing itself. Unac...

/truyện - người nghệ sĩ bên ngoài bức tường

Platon nói, không có chỗ cho nghệ sĩ trong thành phố của tôi. Người nghệ sĩ chưa bao giờ đặt chân đến đó. Để đi đến thành phố của Platon, người nghệ sĩ đã lênh đênh trên rất nhiều con thuyền khác nhau, ăn những mẩu bánh mỳ thừa từ bữa ăn của các thủy thủ, và nhấm nháp những quả táo lên men. Những đêm biển lặng và bầu trời quang đãng, anh hát cho họ nghe những khúc ca của mặt đất. Tiếng hát và tiếng đàn hòa vào tiếng sóng vỗ ồ oạp vào mạn thuyền, đôi khi họ cũng hát với anh, đôi khi họ chỉ im lặng lắng nghe. Người nghệ sĩ thỉnh thoảng cũng hát những giai điệu do anh tự nghĩ ra, và kể cho chú bé học việc trên tàu rằng những con mòng biển đã dạy anh âm nhạc. Chúng chở trên đôi cánh những khúc ca của sóng và gió. Chú bé lắng nghe anh chăm chú và nói rằng hình như ngày bé, chú cũng từng hiểu ngôn ngữ của các loài chim. Khi lớn lên người ta bảo chú phải chọn lấy một nghề, như là làm nông, thợ rèn hay vào quân đội bảo vệ thành phố, chứ không thể có chuyện một con người hẳn hoi mà lại hót n...