Skip to main content

Belleville cuối tháng Năm

Đêm hôm ấy, sau mấy tiếng đồng hồ lê chân giữa các nhà ga, mình đến Belleville. Quảng trường rất vắng người, mấy ngọn đèn thưa càng làm cho bóng tối dày đặc và trơ trụi. Mình gọi cho chị Châu ra đón, rồi kéo vali sang hàng KFC phía bên kia đường. Không phải vì mình đói, dù mình không nhớ mình đã ăn tối hay chưa, mà chỉ là giữa một màn đêm không có giới hạn, gian hàng sáng choang ánh đèn huỳnh quang ấy hiện lên như một trạm trú chân. Mình ngồi lên cái ghế đỏ, và mệt mỏi.
Chị Châu đến, hỏi mình ăn gì chưa, chị mua cánh gà vì chưa ăn cơm, rồi bọn mình đứng chờ đến lượt. Chị đã gần như trao cho mình một cái ôm. Hai thanh niên da màu xếp hàng trước, quay sang hỏi chị Châu về điếu vape chị đang đeo, và chị trả lời họ về mùi chị đang dùng, mình không còn nhớ nữa.
Mình nói vài câu ngắn, chị Châu tỏ ra hiểu và thông cảm. Rồi chị kéo vali cho mình về. Vali màu đỏ. Balo nặng, nhưng mình không quan tâm nữa. Tất cả chỗ hành lý đó, mình thu xếp vội vàng trong vòng ít hơn 1 tiếng đồng hồ, không chắc có gì thừa hay thiếu, rồi cứ thế, mình hướng về với bà, với mẹ đang bận rộn lẫn đau thương.
Mình rảo bước theo chị Châu, nhưng phần phía trong mình khi đó có lẽ đã hòa lẫn vào bóng tối của quảng trường, như những cánh hoa lặng lẽ nở trong đêm, trong những bụi cây đêm. Vì một lẽ nào đó, mình nghĩ đó là những bông hải đường màu đỏ, với cánh hoa rất dày, và với những chiếc lá xanh đậm còn dày hơn nữa. Nhưng trong đêm, tất cả đều là đêm, tất cả đều là đen, chỉ có những cánh hoa đỏ sẵm như một trái tim đang chảy máu. Nhưng trong đêm, tất cả đều là đêm, tất cả đều là đen, và những cánh hoa ấy không thể bị nhìn thấy. Lẫn vào đêm, lặng lẽ nở, và đỏ.









Comments

Popular posts from this blog

Thế nào là “không gian” trong sân khấu? – một số gợi mở từ Die Klage der Kaiserin (1989) của Pina Bausch

. [Bài viết từ tháng 6 năm 2021]         Die Klage der Kaiserin là bộ phim đầu tay và cũng là duy nhất của Pina Baush. Phim được quay từ tháng mười năm 1987 đến tháng tư năm 1988 tại Wuppertal, ra mắt vào năm 1989 nhưng phải tới năm 2011 mới được phát hành bản DVD. Trong gần năm thập kỷ sự nghiệp, Bausch chỉ vài lần cho phép các tác phẩm của mình được thu hình lại, vậy nên ngoài việc tới nhà hát xem tận mắt, khán giả có khá ít cơ hội để trải nghiệm trọn vẹn các tác phẩm của bà. Cơ hội ấy đã mở ra với Die Klage der Kaiserin (tạm dịch: “Lời than thở của nữ vương”) - một thử nghiệm đưa sân khấu kịch-múa của Pina lên màn hình lớn, khi nghệ sĩ chấp nhận những khả năng và những rủi ro của việc dùng các phương tiện của điện ảnh để diễn giải sân khấu.       Bộ phim mở ra với một cảnh ngoại, ở chính giữa khung hình là một người phụ nữ đang dùng máy thổi lá để thổi tung những chiếc lá vàng đang phủ kín mặt đất xung quanh. Âm thanh thực của cảnh ...

no man's land hay là Vua Lear và Manon Lescaut

King Lear và đoạn kết của Manon Lescaut (các hình ảnh trong bài được lấy từ nhiều nguồn trên internet) Khái niệm " no man's land " trong bài được hiểu với nghĩa: vùng đất không có người ở hay không có sự hiện diện của con người. Khi bị hai con gái bỏ rơi, Lear hóa điên và đi vào cơn bão. Mưa gió hay sự thịnh nộ của thánh thần đã khiến Lear trở thành hình tượng chân thực nhất cho condition humaine (*): khi tất cả của cải vật chất, địa vị đều tan rã, con người trở về nhân dạng trần trụi của mình. Điều đó đã được Shakespeare hé lộ với Poor Tom (Edgar giả dạng) để mào đầu cho bi kịch của Lear. (tóm tắt Vua Lear bằng tiếng Việt tại đây ) Act 3, scene 4 Why, thou wert better in thy grave than to answer with thy uncovered body this extremity of the skies.—Is man no more than this? Consider him well.—Thou owest the worm no silk, the beast no hide, the sheep no wool, the cat no perfume. Ha! Here’s three on ’s are sophisticated. Thou art the thing itself. Unac...

/truyện - người nghệ sĩ bên ngoài bức tường

Platon nói, không có chỗ cho nghệ sĩ trong thành phố của tôi. Người nghệ sĩ chưa bao giờ đặt chân đến đó. Để đi đến thành phố của Platon, người nghệ sĩ đã lênh đênh trên rất nhiều con thuyền khác nhau, ăn những mẩu bánh mỳ thừa từ bữa ăn của các thủy thủ, và nhấm nháp những quả táo lên men. Những đêm biển lặng và bầu trời quang đãng, anh hát cho họ nghe những khúc ca của mặt đất. Tiếng hát và tiếng đàn hòa vào tiếng sóng vỗ ồ oạp vào mạn thuyền, đôi khi họ cũng hát với anh, đôi khi họ chỉ im lặng lắng nghe. Người nghệ sĩ thỉnh thoảng cũng hát những giai điệu do anh tự nghĩ ra, và kể cho chú bé học việc trên tàu rằng những con mòng biển đã dạy anh âm nhạc. Chúng chở trên đôi cánh những khúc ca của sóng và gió. Chú bé lắng nghe anh chăm chú và nói rằng hình như ngày bé, chú cũng từng hiểu ngôn ngữ của các loài chim. Khi lớn lên người ta bảo chú phải chọn lấy một nghề, như là làm nông, thợ rèn hay vào quân đội bảo vệ thành phố, chứ không thể có chuyện một con người hẳn hoi mà lại hót n...