Skip to main content

tự thuật - một nỗ lực thanh minh

Chuẩn bị cho một bộ hồ sơ mới, mình lại ngồi viết CV, tiếng Việt là tự thuật cá nhân. Có lần mình thấy bạn mình nói là cái nỗ lực quảng cáo bản thân này thật phiền phức quá, và đôi khi những thứ chúng ta hô bày, trang hoàng cho chính bản thân, như là chức vụ hay giải thưởng, không phản ánh chúng ta là ai. Mình là người hướng nội, và dù hết sức khắc kỉ, mình lại vô cùng ngại ngần mỗi lần phải tự dán một cái dãn gì đó. Ai sẽ đọc và ai sẽ hiểu mình như mình muốn? Và thậm chí, câu hỏi cần đặt ra là: Mình có muốn người khác hiểu mình không?

Có một lần ngày bé, mình đã khóc cả đêm mà nhất quyết không chịu mở mồm ra nói lý do với mẹ. Từ những ngày còn non nớt, mình đã hiểu cái nỗ lực bất thành của từ ngữ khi cố gắng truyền tải những điều sâu kín của tâm hồn, những mất mát, những lỗ hổng, những cơn trầm uất cá nhân. Làm sao có thể khiến người ta hiểu khi chính mình không hiểu, làm sao để dùng một thứ của chung để giải nghĩa một cái riêng? Làm sao để chỉ cho ai đó lối vào thế giới của mình, khi thế giới đó luôn thay đổi, đang hoàn chỉnh, hoặc đang tan rã? Làm sao chỉ dùng một câu chuyên duy nhất để hiểu một con người?

Ngay cả cái tên mình, khi ra nước ngoài, mình cũng không giữ được. Mình cố ý lược bỏ những sắc hỏi ngã nặng, vì chúng hoàn toàn "vô ích", vì hệ thống chữ cái ở xứ sở này không có chỗ cho những thanh điệu như thế. Để hòa mình vào một cộng đồng lớn, đôi khi phải quên đi mình là ai, phải tự động gạt bỏ những sắc nhọn, gai góc mà ở quê hương, đó là một điều chẳng đáng quan tâm, nhưng ở đây, đó lại là một sự kỳ dị bất tiện. Khi một con nhím sống giữa bầy khỉ.

Khieu-Anh NGUYEN không phải là cái tên bố mẹ đặt cho mình khi sinh ra, nhưng nó là cái tên mặc định trong tấm giấy thông hành đưa cuộc sống của mình ở đây vào trong vòng luật pháp. Nó không đủ để giấu đi mình đến từ đâu, nhưng như dấu sắt nung đóng lên mình người nô lệ, nó cho người ta biết rằng mình không phải là một thành phần bất tuân, hay gây nguy hiểm cho cộng đồng đang tiếp nhận mình. Mình vẫn đơn giản cái tên bằng cách bảo mọi người gọi mình là "Anne", thậm chí là "Anh" (và mình lại nín cười mỗi lần được gọi bằng cái định danh rất nam tính ấy). Có những người rất cẩn trọng và đáng yêu, đã thường nỗ lực gọi mình là "Khiu Anne". Cũng có những người tìm cách đặt biệt danh cho mình, cũng có khi mình thử nghĩ ra một cái tên mới, thay vì tên bố mẹ đặt cho. Nhưng mình không nghĩ bất cứ cái tên nào là khá dĩ vào lúc này. Ngay cả cái tên trên giấy khai sinh, với đầy đủ sắc huyền, mỗi lần về Việt Nam và viết nó ra, mình còn thấy xa lạ, như tên của một người khác. Vài ba đứa bạn gọi mình là "Khiếu", nhưng mình thường thấy khó chịu, vì đấy là họ bên đằng nhà ngoại mình, họ của mẹ mình, chứ không phải tên mình. Khó chịu vì cảm thấy một sự thiếu tôn trọng, một sự quy chụp vô duyên, dù mình không giải thích, và cũng không thể nạt nộ những người dùng cái tên ấy để gọi mình. Mình thường chỉ cười nhạt, và bỏ qua. Đôi khi, mình cũng thầm ước họ hiểu được sự khó chịu và bối rối trong nụ cười ấy.

Một cái tên, một sự xác nhận danh tính đã đủ làm mình băn khoăn như thế, nên có lẽ mình sẽ kết thúc phần tự thuật này tại đây. Ngay cả khi cái tên còn chưa được điền vào. Trong một nỗ lực thanh minh dường như vô ích, và không được hoan nghênh cho lắm, thì mình vẫn muốn nói rằng, mình chỉ là một ai đó, đã đánh mất tên mình trong lúc bận rộn và vội vã lựa chọn những con đường, và biết đâu đấy, có một con đường nào đó, một lựa chọn nào đó, sẽ đưa mình đến một cái tên, một nhân thân toàn vẹn.

Comments

Popular posts from this blog

Thế nào là “không gian” trong sân khấu? – một số gợi mở từ Die Klage der Kaiserin (1989) của Pina Bausch

. [Bài viết từ tháng 6 năm 2021]         Die Klage der Kaiserin là bộ phim đầu tay và cũng là duy nhất của Pina Baush. Phim được quay từ tháng mười năm 1987 đến tháng tư năm 1988 tại Wuppertal, ra mắt vào năm 1989 nhưng phải tới năm 2011 mới được phát hành bản DVD. Trong gần năm thập kỷ sự nghiệp, Bausch chỉ vài lần cho phép các tác phẩm của mình được thu hình lại, vậy nên ngoài việc tới nhà hát xem tận mắt, khán giả có khá ít cơ hội để trải nghiệm trọn vẹn các tác phẩm của bà. Cơ hội ấy đã mở ra với Die Klage der Kaiserin (tạm dịch: “Lời than thở của nữ vương”) - một thử nghiệm đưa sân khấu kịch-múa của Pina lên màn hình lớn, khi nghệ sĩ chấp nhận những khả năng và những rủi ro của việc dùng các phương tiện của điện ảnh để diễn giải sân khấu.       Bộ phim mở ra với một cảnh ngoại, ở chính giữa khung hình là một người phụ nữ đang dùng máy thổi lá để thổi tung những chiếc lá vàng đang phủ kín mặt đất xung quanh. Âm thanh thực của cảnh ...

no man's land hay là Vua Lear và Manon Lescaut

King Lear và đoạn kết của Manon Lescaut (các hình ảnh trong bài được lấy từ nhiều nguồn trên internet) Khái niệm " no man's land " trong bài được hiểu với nghĩa: vùng đất không có người ở hay không có sự hiện diện của con người. Khi bị hai con gái bỏ rơi, Lear hóa điên và đi vào cơn bão. Mưa gió hay sự thịnh nộ của thánh thần đã khiến Lear trở thành hình tượng chân thực nhất cho condition humaine (*): khi tất cả của cải vật chất, địa vị đều tan rã, con người trở về nhân dạng trần trụi của mình. Điều đó đã được Shakespeare hé lộ với Poor Tom (Edgar giả dạng) để mào đầu cho bi kịch của Lear. (tóm tắt Vua Lear bằng tiếng Việt tại đây ) Act 3, scene 4 Why, thou wert better in thy grave than to answer with thy uncovered body this extremity of the skies.—Is man no more than this? Consider him well.—Thou owest the worm no silk, the beast no hide, the sheep no wool, the cat no perfume. Ha! Here’s three on ’s are sophisticated. Thou art the thing itself. Unac...

/truyện - người nghệ sĩ bên ngoài bức tường

Platon nói, không có chỗ cho nghệ sĩ trong thành phố của tôi. Người nghệ sĩ chưa bao giờ đặt chân đến đó. Để đi đến thành phố của Platon, người nghệ sĩ đã lênh đênh trên rất nhiều con thuyền khác nhau, ăn những mẩu bánh mỳ thừa từ bữa ăn của các thủy thủ, và nhấm nháp những quả táo lên men. Những đêm biển lặng và bầu trời quang đãng, anh hát cho họ nghe những khúc ca của mặt đất. Tiếng hát và tiếng đàn hòa vào tiếng sóng vỗ ồ oạp vào mạn thuyền, đôi khi họ cũng hát với anh, đôi khi họ chỉ im lặng lắng nghe. Người nghệ sĩ thỉnh thoảng cũng hát những giai điệu do anh tự nghĩ ra, và kể cho chú bé học việc trên tàu rằng những con mòng biển đã dạy anh âm nhạc. Chúng chở trên đôi cánh những khúc ca của sóng và gió. Chú bé lắng nghe anh chăm chú và nói rằng hình như ngày bé, chú cũng từng hiểu ngôn ngữ của các loài chim. Khi lớn lên người ta bảo chú phải chọn lấy một nghề, như là làm nông, thợ rèn hay vào quân đội bảo vệ thành phố, chứ không thể có chuyện một con người hẳn hoi mà lại hót n...