Skip to main content

nostalgia

Sáng nay đọc trên FB một cái định nghĩa theo kiểu etymology của từ "nostalgia", đại ý nói về nỗi đau khi nhớ về quá khứ. Ban đầu mình cảm thấy có thể không đau khi nghĩ về quá khứ, rồi rồi mình nhận ra rằng một khi quá khứ không còn thuộc sở hữu của mình nữa, không thể vặn vẹo biến đổi theo ý thích, không thể khiến mình của ngày hôm nay khác đi vì mình của ngày xưa là không thể thay đổi, bỗng nhiên một đợt sóng buồn bã thê lương chảy cuộn qua mình, y như lúc đi làm cắt bốn năm củ hành một lúc, nước mắt cứ lã chã tuôn rơi, vô phương trốn tránh.

Ngày xưa mình đọc được câu này: "Cryptomnesia là hiện tượng ký ức lãng quên bỗng xuất hiện tươi mới và nguyên gốc đến mức chúng ta không nhận ra đấy chính là ký ức.", giờ lại thấy mình thường xuyên có trải nghiệm ấy. Đứng cuốn sushi ngày này qua tháng khác, ngửi mùi cafe bỗng nhớ con đường Phố Huế những ngày học cấp hai (người ta nói bởi vì vùng cảm nhận mùi của não nằm ngay gần vùng lưu trữ ký ức thì phải); hay một khoảnh khắc bỗng sống lại một sáng Hà Nội trời mưa xầm xì, ngồi gác chân lên bàn học lát đá và mơ về nước Pháp; khoảnh khắc khác lại thấy mình chân đi đôi giày chấm bi đen trắng cao cả tấc, ngồi chờ xe bus từ siêu thị về nhà; hay một buổi chiều nắng nôi đội mũ vải mới mua, bắt một tuyến metro chưa bao giờ biết đến, rồi lội bộ đi một quãng đường dài, qua một công viên đã quên tên, đi xin việc; những tòa nhà vuông vắn sắc lạnh ở Berlin, những đường tàu điện chằng chịt nền đá lát đường ở Brussels, cửa hàng bán đồ Trung Quốc nằm ở góc khuất của một quảng trường rác rưởi lăn lóc xứ Hà Lan sau một đêm lễ hội... Là năm ngoái, bốn năm, hay hai mươi năm. Tất cả chỉ gói gọn trong một cái chớp mắt, một giây cúi đầu. Ký ức hãy đưa ta đi bất cứ đâu, dẫu buồn hay vui, miễn là không phải ở đây. Hồi tưởng những khi ta bước lên một con tàu vùn vụt lao đi, đứng trên một sân ga, một bến cảng, một trạm trung chuyển, một nơi ta di động hay chờ được di động; không phải ở đây, hay lúc này.

Một người bạn cũ, một miền ký ức cũ, ta yêu như chính bản thân ta, yêu thương, chấp nhận và sở hữu. Nếu một ngày người bỏ ta đi, tự nhủ rằng cũng không sao cả. Chỉ cần ta còn sống, ký ức đó vẫn là của ta, hồn nhiên, bất biến.

Comments

Popular posts from this blog

Thế nào là “không gian” trong sân khấu? – một số gợi mở từ Die Klage der Kaiserin (1989) của Pina Bausch

. [Bài viết từ tháng 6 năm 2021]         Die Klage der Kaiserin là bộ phim đầu tay và cũng là duy nhất của Pina Baush. Phim được quay từ tháng mười năm 1987 đến tháng tư năm 1988 tại Wuppertal, ra mắt vào năm 1989 nhưng phải tới năm 2011 mới được phát hành bản DVD. Trong gần năm thập kỷ sự nghiệp, Bausch chỉ vài lần cho phép các tác phẩm của mình được thu hình lại, vậy nên ngoài việc tới nhà hát xem tận mắt, khán giả có khá ít cơ hội để trải nghiệm trọn vẹn các tác phẩm của bà. Cơ hội ấy đã mở ra với Die Klage der Kaiserin (tạm dịch: “Lời than thở của nữ vương”) - một thử nghiệm đưa sân khấu kịch-múa của Pina lên màn hình lớn, khi nghệ sĩ chấp nhận những khả năng và những rủi ro của việc dùng các phương tiện của điện ảnh để diễn giải sân khấu.       Bộ phim mở ra với một cảnh ngoại, ở chính giữa khung hình là một người phụ nữ đang dùng máy thổi lá để thổi tung những chiếc lá vàng đang phủ kín mặt đất xung quanh. Âm thanh thực của cảnh ...

no man's land hay là Vua Lear và Manon Lescaut

King Lear và đoạn kết của Manon Lescaut (các hình ảnh trong bài được lấy từ nhiều nguồn trên internet) Khái niệm " no man's land " trong bài được hiểu với nghĩa: vùng đất không có người ở hay không có sự hiện diện của con người. Khi bị hai con gái bỏ rơi, Lear hóa điên và đi vào cơn bão. Mưa gió hay sự thịnh nộ của thánh thần đã khiến Lear trở thành hình tượng chân thực nhất cho condition humaine (*): khi tất cả của cải vật chất, địa vị đều tan rã, con người trở về nhân dạng trần trụi của mình. Điều đó đã được Shakespeare hé lộ với Poor Tom (Edgar giả dạng) để mào đầu cho bi kịch của Lear. (tóm tắt Vua Lear bằng tiếng Việt tại đây ) Act 3, scene 4 Why, thou wert better in thy grave than to answer with thy uncovered body this extremity of the skies.—Is man no more than this? Consider him well.—Thou owest the worm no silk, the beast no hide, the sheep no wool, the cat no perfume. Ha! Here’s three on ’s are sophisticated. Thou art the thing itself. Unac...

/truyện - người nghệ sĩ bên ngoài bức tường

Platon nói, không có chỗ cho nghệ sĩ trong thành phố của tôi. Người nghệ sĩ chưa bao giờ đặt chân đến đó. Để đi đến thành phố của Platon, người nghệ sĩ đã lênh đênh trên rất nhiều con thuyền khác nhau, ăn những mẩu bánh mỳ thừa từ bữa ăn của các thủy thủ, và nhấm nháp những quả táo lên men. Những đêm biển lặng và bầu trời quang đãng, anh hát cho họ nghe những khúc ca của mặt đất. Tiếng hát và tiếng đàn hòa vào tiếng sóng vỗ ồ oạp vào mạn thuyền, đôi khi họ cũng hát với anh, đôi khi họ chỉ im lặng lắng nghe. Người nghệ sĩ thỉnh thoảng cũng hát những giai điệu do anh tự nghĩ ra, và kể cho chú bé học việc trên tàu rằng những con mòng biển đã dạy anh âm nhạc. Chúng chở trên đôi cánh những khúc ca của sóng và gió. Chú bé lắng nghe anh chăm chú và nói rằng hình như ngày bé, chú cũng từng hiểu ngôn ngữ của các loài chim. Khi lớn lên người ta bảo chú phải chọn lấy một nghề, như là làm nông, thợ rèn hay vào quân đội bảo vệ thành phố, chứ không thể có chuyện một con người hẳn hoi mà lại hót n...